Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2013

PHONG THỦY LUẬN . BÀI 3.

Phong Thủy Luận.

6 / XÁC ĐỊNH TÂM NHÀ : Theo cách thông thường chúng ta xác định tâm nhà bằng cách lấy tâm cân bằng trọng lực của căn nhà . Tức là chúng ta lấy trọng tâm về lực của căn nhà theo hình dạng của nó bất kỳ . Các căn nhà chữ nhật , hình vuông lấy tâm bằng cách đơn giản là điểm giao nhau của đường chéo . Các căn nhà có dạng bất kỳ phải lấy tâm theo cân bằng lực . Tuy nhiên , khi người Thày Phong thủy có tu tập Mật Tông , đến một mức nào đó có thể có sự Linh thông với Thần Linh Thổ địa , chính lúc đó , nếu Phong thủy sư bắt ấn triệu Thổ Địa , với sự Linh thông , Thần Thổ địa sẽ chỉ cho người đó đâu là trong tâm của Dương trạch và rất nhiều khi trọng tâm này khác với trọng tâm hình học mà chúng ta đã thực hiện .
dienbatn .
7/ Cung Tài của một căn nhà .
Thông thường theo Bát quái của PT thì Các Cung được kể như sau theo phương hướng (do La bàn xác định) . Cách này tại Đài loan rất hay được áp dụng .

1. Cung Nghề nghiệp. Hướng Bắc
2. Cung Quí Nhân/ Cung Du lịch. Tây Bắc
3. Cung Tử (Cung Con trẻ) Tây
4. Cung Hôn nhân hay Cũng gọi là Cung Phu Thê.Tây Nam
5. Cung Danh tiếng. Nam
6. Cung Tài. Đông Nam
7. Cung Gia đình/ Cung Sức khỏe. Đông
8. Cung Học Vấn/ Cung Kiến thức Đông Bắc
9. Trung Cung thuộc Chủ nhà. Chính giữa thuộc Tâm nhà .

Trong bất kể trường hợp nào , chúng ta họp hội nghị , thảo luận nên ngồi ở góc Đông Nam của căn nhà hay cái bàn để chiếm cung Tài để có lợi thế , quay mặt về một trong 4 hướng tốt của mình , nhường khách ngồi vào cung Quý nhân ( Tây bắc ) . Nếu làm ngược lại , tức là mình ngồi ở Tây Bắc , khách ở Đông Nam là hiện tượng " Phản khách vi chủ " - Phần thiệt hại hay bị động lập tức về phía mình . Cung Đông Nam tức cung tài tuyệt đối không để WC vì mỗi lần giật nước , tiền bạc sẽ bị cuốn trôi đi . Khu vực cung Tài nên đặt Tủ chứa tiền , bàn thờ hay chỗ làm việc của mình . Người Đài Loan thường dùng những cung này để cải biến tình hình trong nhà . Ví dụ tự nhiên thấy trong nhà vợ chồng hay bị xào xáo , gây gổ , người ta xem lại góc phía Đông hay Tây Nam của ngôi nhà tức là cung Gia đình và Phu thê . Người ta quét dọn khu vực này cho sạch sẽ , gắn thêm đèn sáng hoặc đặt thêm một cái Phong Linh . Chỉ ít bữa sau hiện tượng lục đục trong gia đình sẽ hết . dienbatn thử cách này thấy rất hiệu quả .
dienbatn .
8 / LƯU Ý VỀ BÁT SÁT :  Bát sát là quan hệ hung hại giữa phương vị của Long và Thủy chảy vào Minh đường , của Long và Hướng nhà , giữa Hướng nhà và hướng của Thủy chảy vào Minh đường , giữa Hướng nhà và phương vị của cửa chính , giữa Hướng nhà và ngày tháng khởi công xây dựng .
Bát sát là các kiêng cữ rất nghiêm ngặt trong việc lập hướng , lập Thủy Pháp Trường Sinh , chọn ngày khởi công xây dựng trong cả Âm trạch và Dương trạch . Nếu vi phạm vào bát sát thì chắc chắngia chủ không tránh khỏi tai họa cho gia đình và con cháu .
Bát sát bao gồm : Ngọ sát càn , Thìn sát Khảm , Dần sát Cấn , Thân sát Chấn , Dậu sát Tốn , Hợi sát Ly , Mão sát Khôn , Tỵ sát Đoài .
Ý nghĩa của bát sát rất phức tạp , song các bạn chỉ cần lưu ý những điều cơ bản sau :
HƯỚNG BỊ SÁT : Cửa nhà hướng Càn mà ở Ngọ vị ( ta đặt la kinh trên tâm điểm của ngôi nhà , phóng các cung tới bức tường đối diện ) là bị sát . Nhà hướng Đoài mà cửa ở Tỵ vị là bị sát . Nhà hướng Khôn mà cửa ở mão vị là bị sát . Nhà hướng Ly mà cửa ở Hợi vị là bị sát . Nhà hướng Tốn mà cửa ở Dậu vị là bị sát . Nhà hướng Chấn mà cửa ở vị Thân là bị sát . Nhà hướng Cấn mà cửa ở vị Dần là bị sát . Nhà hướng Khảm mà cửa ở vị Thìn là bị sát .
NGÀY BỊ SÁT : Tương tự như vậy Nhà hướng càn không được khởi công hay để cửa ra vào , cửa ngõ , cửa sổ hay dòng nước tới từ vị Ngọ , ngày Ngọ . nếu để vào vị đó , ngày đó tai họa sẽ ập đến liền . Khi làm nhà , các bạn hết sức lưu ý vấn đề này .

9 / THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH :

Trong Địa lý cổ truyền,phương pháp căn cứ vào các dòng nước chẩy chảy đến,tụ lại chảy đi ở xung quanh cuộc đất để xác định hướng và vị trí nhà gọi là Thủy pháp.Phương pháp căn cứ vào các dòng nước chảy,nuớc tụ và hướng nhà nằm vào cung nào của hệ trường sinh thì gọi là Thủy pháp trường sinh.Vậy phương pháp kết hợp Thủy pháp với các phương vị của thiên bàn và phương sinh thái của hệ trường sinh để xác định hướng và vị trí nhà để đón cát tránh hung gọi là Thủy pháp trường sinh.Trong Địa lý cổ truyền Thủy pháp trường sinh là quan trọng nhất,ở vùng đồng bằng và Thành phố các điều kiện về Sơn mạch,Long mạch rất khó phát hiện ,do vậy Thủy pháp trường sinh càng quan trọng.Khi làm đúng Thủy pháp trường sinh rồi ,đã đón được cát tránh được hung rồi. 

Thủy pháp: 

Hướng vượng gặp nước là vượng thủy. Hướng suy gặp nước thì lại suy hơn. Trái lại, Tọa vượng gặp nước thì lại rất xấu nhưng Tọa suy gặp nước thì lại rất tốt. Do đó, các bố trí về thủy như bồn tắm, bồn rửa mặt, hồ cá, hồ bơi, vòi nước, máy giặt... đều cần phải đặt đúng vị trí để làm cho suy vượng.
Phía bên ngoài nhà nếu có thủy nơi các Hướng, Tọa vượng, suy như sông ngòi, hồ ao... có thể thấy được từ nhà nhìn ra thì cũng có ảnh hưởng quan trọng đến những người cư ngụ trong căn nhà này.
Thủy pháp được dùng rất nhiều trong phái Huyền-không để làm vượng thêm các cung có Hướng đương vượng và cũng để làm vượng các cung có Tọa đương suy. Khi dùng Thủy-pháp phải chú ý tránh việc làm vượng hướng có thể làm suy tọa hay ngược lại. Phối hợp Ngũ-hành, Thu sơn xuất xát và Thủy-pháp nhiều khi có thể giúp làm giãm sự sui sẻo mà lại tăng thêm may mắn.
Ngoài ra, hình thể của sông ngòi theo phái Loan-đầu cũng rất quan trọng dù rằng thủy ở đúng phương làm cho vượng. Như dòng nước chảy vòng cung rồi bắn thẵng trở lại hay thuận thủy (còn gọi là tống thủy) tức là thủy khí đi từ gần nhà xa ra thì xấu cho tài lộc. Còn trường hợp nghịch thủy là nước chãy ngược tới thì rất tốt cho tiền tài.
Nghịch thủy hay Thuận thủy là căn cứ theo phương hướng của cửa chính và dòng nước hay con đường phía trước cửa chính. Trong vị thế cửa chính như đón hướng đi của dòng nước hay hướng đi của dòng xe cộ lưu chuyễn thì như là đón thủy khí vào nhà, tức là nghịch thủy. Trong vị thế cửa chính quay xuôi theo dòng nước hay chiều đi của xe cộ trước nhà thì coi như là thủy khí từ nhà theo dòng này mà thoát ra nên đây là tống thủy khí đi, là thuận thủy, là mất thủy khí.
Thủy Pháp Tường Sinh rất quan trọng khi thiết kế xây dựng nhà mới . Nó chính là việc điều tiết dòng Khí ra vào của căn nhà nhờ vào dòng nước cho phù hợp với Thiên Môn - Địa Hộ của căn nhà . Đây chính là hướng đường cấp , thoát khi tiến hành tính toán cụ thể khi thiết kế .

10 / Tam sát: 

Tam sát là 3 sao có sát khí là Tuế-sát, Kiếp-sát và Tai-sát. Tam-sát có 3 loại là Niên Tam-sát, Nguyệt Tam-sát và Nhật Tam-sát hay nói cách khác là Tam-sát của năm, tháng và ngày.
Tam-sát là sát ở các cung sau đây: 1. Năm Thân, Tý, Thìn (hay tháng 7, 11, 3 ta) sát ở 3 phương Tỵ, Ngọ và Mùi tức phương Nam.
2. Năm Dần, Ngọ, Tuất (hay tháng 1, 5, 9 ta) sát ở 3 phương Hợi, Tý, Sửu tức phương Bắc.
3. Năm Tỵ, Dậu, Sửu (hay tháng 4, 8, 12 ta) sát ở 3 phương Dần, Mão, Thìn tức phương Ðông.
4. Năm Hợi, Mão, Mùi (hay thánh 10, 2, 6 ta) sát ở 3 phương Thân, Dậu, Tuất tức phương Tây. Các nơi có Tam-sát đều kỵ động làm tăng năng lực sát. Vì vậy mà cấm động thổ, tu sửa... nhứt là khi Tam-sát ở cung Tọa vì khi đó khí mạnh của hướng xung chiếu thẳng làm phạm xung sát nên tai họa đến liền.

11/ MỘT VÍ DỤ VỀ XÁC ĐỊNH VỊ CỦA CỬA RA VÀO : 

CÁC VỊ CỬA CHÍNH : Nhà tọa Nhâm hướng Bính 
Cửa chính được chia làm ba vị theo chiều dài mặt tiền.Cửa ở chính giửa gọi là chánh môn .Cửa bên phải và bên trái mặt tiền (từ trong nhìn ra ) được gọi là tả,hữu thiên môn.Ta lần lượt xét các vị cửa như sau :
A/Chánh môn : Hướng Bính vị Bính bị Xương dâm và các sao Dực , Sao Trương quản .
• Xướng dâm(Hung):Đặt cửa vào sơn vị này là xấu: Dâm loạn nam nữ tửu sắc hại gia phong,hoài thai,chăn nuôi bất lợi.
• Sao Trương : Là nguyệt tinh, mang tên con hươu. Là một sao xấu, chủ về xấu trong xây dựng, tai nạn, quan hệ nam nữ .
• Sao Dực : Là Hỏa tinh, mang tên con rắn. Là một sao tốt, chủ về vượng tài lộc, con cháu giầu sang, xây dựng, hôn thú tốt đẹp.
• Đây là một vị cửa xấu .
B/ HỮU THIÊN MÔN : Hướng Bính vị Mùi : Bị Tuyệt bại và các sao Tỉnh , sao Quỷ quản .
• Tuyệt bại(Hung):Đặt cửa vào sơn vị này là xấu:Gia tài phá hoại,cha con không quan tâm đến nhau.
• Sao Tỉnh : Là Mộc tinh mang tên con hươu. Là một sao tốt, chủ về lợi cho việc thi cử, công danh, trồng trọt, chăn nuôi được mùa, xây dựng nhà cửa, hôn nhân tốt đẹp. Sao này kỵ an táng.
• Sao Quỷ : Là Kim tinh, mang tên con dê. Là một sao xấu, chủ về bất lợi cho việc xây cất nhà cửa, hôn nhân bất lợi. Riêng việc an táng tốt.
• Đây cũng là một vị cửa xấu .
C/ TẢ THIÊN MÔN : Hướng Bính vị Thìn bị Cô quả và các sao Giác , sao Cang quản .
• Cô quả(Hung):Đặt cửa vào sơn vị này là xấu:Quả phụ ,tha phương cầu thực,phá sản,chăn nuôi bất lợi.
• Sao Giác :Là Mộc tinh mang tên con Giao ( Cá Sấu ), . Là một sao tốt, chủ về vinh hiển, đỗ đạt, gặp Quý nhân, lơi cho việc hôn thú, con cái tốt lành. Kỵ mai táng và xây cất mộ phần.
• Sao Cang : Là Kim tinh, mang tên con Rồng. Là một sao xấu, chủ mọi việc phải giữ mình, đừng làm liều. Ky hôn thú.
• Đây cũng là một vị cửa xấu .
Như vậy hướng nhà này không có một vị cửa nào tốt cả .
Nếu mở cửa Hướng Bính vị Đinh thì được Hoan lạc trong hệ Phúc đức là tốt , nhưng bị sao Liễu trong Nhị thập bát Tú lại xấu . Song sao tốt của hệ Phúc đức ảnh hưởng liên tục còn sao xấu trong Nhị thập bát tú 28 năm , tháng , ngày mới xuất hiện một lần . Nếu mở cửa hướng Bính vị Tốn thuộc trạch Ly điều kiện lập Thủy pháp Trường sinh : Thủy khẩu ở Tuất được sinh hướng và Vượng hướng . Thủy khẩu ở Mùi thì được tự sinh hướng và tự vượng hướng .
12/ TÀI LIỆU THAM KHẢO : NGHỆ THUẬT ĐIỂM THẦN SÁT . 

Căn cứ để an Thần sát :
1/ Xác định Tọa .( Phân kim) .
2/ Xác định Hướng ( Phân kim ) .
3/ Xác định Đại môn ( Phân kim ) .
I/ MÔN KHÍ CỬU CUNG ĐIỂM THẦN SÁT :
( Môn Lầu cửu cung điểm Thần sát ) .
A/ CÁC THẦN SÁT PHẢI AN : 
a/ Thần sát an theo Can của Đại môn bao gồm .
1/ THIÊN LỘC .
2/ DƯƠNG QUÝ NHÂN .
3/ÂM QUÝ NHÂN .
b/ các Thần sát an theo Chi của Đại môn :
4/ ĐÀO HOA .
5/ ĐẠI SÁT .
6/ THIÊN MÃ.
7/ ĐỘC HỎA .
8/ THIÊN HÌNH . 

II/CHỦ ĐỊA KHÍ CỬU CUNG ĐIỂM THẦN SÁT
A/ CÁC THẦN SÁT PHẢI AN : 
a/ Thần sát an theo Can của Hướng nhà bao gồm .
1/ THIÊN LỘC .
2/ DƯƠNG QUÝ NHÂN .
3/ÂM QUÝ NHÂN .
b/ các Thần sát an theo Chi của Hướng nhà :
4/ ĐÀO HOA .
5/ ĐẠI SÁT .
6/ THIÊN MÃ.
7/ ĐỘC HỎA .
8/ THIÊN HÌNH .
Ý NGHĨA CỦA THẦN SÁT 
Đại môn là nơi họa phúc tiến vào hoặc ra đi , là nơi động Khí , nơi Âm - Dương - Ngũ Khí gặp nhau mà tạo ra cát hung ." Họa tòng Khẩu xuất - bệnh tòng Khẩu nhập " . Nghĩa là mọi tai họa , bệnh tật đều do từ miệng mà ra . Có thể nói rằng : Cát , Hung , Họa , Phúc của Dương Trạch đa phần có liên quan đến khẩu Môn , mà điều đó người ta có thể tạo ra được thông qua phép KHAI MÔN THỤ KHÍ. Từ đó có thể tạo ra và quyết định vận mệnh của mình . 

1/ THIÊN LỘC : 

Lộc là phương Lâm quan của Tuế Can , tính của Ngũ hành , Lâm quan tới cát . Lâm quan là thời đương thịnh , đang lên phơi phới , là đúng Đạo sinh thành , gần tới Vượng mà là Lộc , bởi đã Vượng thì Thái quá . Lộc là cách có Lộc ra chính môn . Nhà có cách này là cát khánh , rất tốt . Lộc ra chính Môn sẽ đem lại nhiều may mắn về tiền bạc , gia sản thăng tiến , điền trang vượng .Thường sinh người béo tốt , thông minh , tuấn tú lại khéo léo , tài năng Kinh doanh giỏi , làm ăn tiến phát . Tuy nhiên cũng cần phải lánh xa Sinh - Vượng Lộc , tránh không vong tử , tuyệt . Nếu Mộ , Không vong , Tử , Tuyệt thì Khí tán , không tụ , là vô dụng . Có Lộc cũng như không . Tài sản dù có như nước , rồi cũng tiêu tan hết . Đó gọi là Tuyệt Lộc . Nếu gặp Thai Khí thì mặc dù vẫn phát đạt , nhưng con trai tài hoa mà kiêu ngạo , con gái nhỏ thì khả ái nhưng ngỗ nghịch . Trong gia đình hay sinh nội loạn , cãi vã , cả ngày ồn ào khiến mọi người bất yên .Lộc cung là Cát cung , vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra , còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ . Tất cả được Lộc đều tốt . Tuy nhiênLộc phải cư đúng cung tài , là Lộc cư Lộc , mới thật là đắc cách , mới thật sự tốt đẹp . 
2/ THIÊN MÃ : 
Mã chủ trạng thái động , là tượng của thay đổi , bôn tẩu .
Mã ra chính môn thì Gia trạch luôn gặp sự may mắn , tin vui ngất trời , phát tài mau chóng , công việc đều trôi chẩy thuận lợi . Thường sinh ra người khôi ngô , tuấn tú lại hay xuất Ngoại ra ngoài , ăn nên làm ra . Tuy nhiên cũng như Lộc , Mã cần phải Sinh - Vượng , tránh Không vong , Tử , Tuyệt . Gặp Sinh , Vượng thì tốc phát , lại sinh ra người thông minh , cao quý . Gặp Không vong , Tử , Tuyệt thì Giang hồ bôn tẩu nơi xa đểu mưu sinh . Tha phương , cầu thực , công danh thăng giáng thất thường , sự nghiệp thì long đong , lận đận , lại dễ gặp tai nạn về chân tay . Công việc chỉ có đầu mà không có đuôi , thành công ít mà thất bại thì nhiều . Gặp Thoái Khí lại ra cung Đoài trực cùng Đào hoa thì Âm thịnh - Dương suy , con gái dễ phát sinh dâm loạn , con trai chơi bời , nghiện ngập , bại hoại Gia phong .
Mã cũng là cát cung , vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ đều tốt . Chỉ có giường ngủ của Nữ là không nên đặt tại Mã cung, nếu đặt phải thì Tâm bất an , không ở yên một chỗ .
3/ QUÝ NHÂN :
 Quý Nhân Thiên Ất là vị Thần đứng đầu cát Thần , hết sức tĩnh mà có thể chế ngự được mọi chỗ động , chí tôn mà có thể trấn được phi phù .
Nhà có chính môn ra Quý là Đại cát khánh , Gia đạo bình an , hòa thuận , hỉ Khí đầy nhà , luôn gặp may mắn . Quý nhân là sao cứu trợ , là Thần giải tai ách , nên nhà ra Quý nhân là gặp việc có người giúp đỡ , gặp ách có người giải cứu , gặp hung hóa cát. Sự nghiệp hiển vinh , công danh thành đạt , dễ thăng Quan , tiến chức , học hành thi cử nhất nhất đều tốt đẹp . Quý nhân gặp sinh , Vượng , thường sinh người hiếu lễ, khôi nguyên , tướng mạo phi phàm , tính tình nhanh nhẹn , lý lẽ phân minh , không thích mẹo vặt , thẳng thắn mà ôn hòa , khôi ngô tuấn tú . Nếu ngộ Không vong , Tử , Tuyệt thì nguồn Phúc giảm đi nhiều , hoặc nếu có mắc nạn cũng khó tránh , bởi nguồn cứu giải kém hiệu lực , người và gia súc bị tổn thất , kiện cáo , thị phi . Lại hay sinh người tính tình cố chấp , bảo thủ mà suốt đời vất vả , không nên người . Quý nhân ra Thai Khí , nếu lại ngộ Đào hoa thì nam , nữ tuy thông minh , tuấn tú , nhưng nam thì hiếu sắc , nữ thì dâm đãng , làm bại hoại Gia phong , lại hay mắc bệnh tật và trong nhà dễ có người tự ải , tự vẫn vì tình .
Quý nhân là Cát Khí rất tôn quý , nên gia vào cung nào cũng rất tốt , ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ đều tốt . Đặc biệt bàn thờ đặt trên cung có Âm Quý nhân là đại cát khánh , như vậy sẽ được âm Linh phù trợ . Không được để phòng tắm , nhà vệ sinh vào cung Quý nhân , vì như vậy sẽ bị họa hại liên miên , nữ nhân thiếu máu , động thai , sinh con dù có đẹp đẽ nhưng cũng dấn thân vào con đường ô nhục , làm điếm , cuối cùng phải tự vẫn . Tài sản tiêu tan , yêu ma hoành hành , gia đình có người bị cướp bóc , chém giết máu me thảm khốc , bệnh tật đau khổ triền miên . Nếu để nhầm WC vào cung Âm Quý nhân thì tai họa khủng khiếp khó lường .
4/ THIÊN HÌNH : Chính Môn gia Hình thì hại vô cùng , vì Hình chủ tù , ngục , kiện tụng , là tượng của chém giết , mổ xẻ , châm chích . Hình gia Môn thì Gia đạo thường xuyên gặp tai họa , tai bay m họa gió từ đâu đưa đến . Những người sống trong nhà này , tuổi thọ bị triệt giảm . Trong người hay mang thương tật , lại dễ xảy ra kiện tụng , hoặc những việc liên quan đến ngục hình . Trai khắc vợ , gái sát chồng . Hình gia Môn cũng thường sinh ra người có tính khí hung bạo , liều lĩnh , bướng bỉnh , ngang tàng và gian trá , lại hay mang tật trong mình , lớn lên ắt phá tán Tổ nghiệp , tha phương cầu thực .
Thiên hình gia cung nào cũng hung , nếu nó thất hãm còn đỡ , chứ nếu Miếu , Vượng thì vô cùng nguy hiểm . Giường ngủ hay bàn học của con trẻ , nếu để vào cung Hình thì dù có giỏi giang sáng dạ cũng không may khi thi cử , điểm số không cao . Thiên Hình mà đóng ở cầu thang , lại gặp Mã thì ra Mã què , chủ gặp khó khăn trong công việc , nhất là các thủ tục liên quan đến giấy tờ , thủ tục hành chính . Nếu Hình Vượng thì chủ gặp tai nạn Giao thông , tai nạn thương tích chân , tay . Hình , Lộc đi cùng nhau , chủ hay bị mất cắp , làm ăn đổ bể , thất tài , phá sản , hoặc do làm ăn bất chính mà dính dáng tới Pháp luật . Thiên Hình chỉ nên đặt tại nhà WC , phòng tắm , để yểm , trấn là tốt . Khi ấy Hình không còn hiệu lực tác phát , trở thành vô họa .

5/ ĐẠI SÁT : Đại sát là sát của Âm Khí , đó là loại đặc biệt độc . Đại sát thường đóng ở tứ Quý . Đất của Tuế sát không thể phạm vào , phạm vào ắt thương tổn .
Nhà có chính Môn gia Sát là phạm vào cách hung họa nhất , chủ tai nạn chết chóc , ốm đau , bệnh tật . Tai nạn giáng xuống liên miên . Nặng thì mất mạng toàn Gia và chết đến một cách rất thê thảm , khủng khiếp . Nhẹ thì cũng Quan trường bãi miễn , gia sản lụng bại , bần cùng . Tuế Sát mà Gia Môn thì thường sinh ra người yểu tử ( Hữu sinh vô dưỡng ) , hoặc sinh ra người tính tình ương ngạnh , hiếu thắng , hung tơn , nham hiểm , bất nhân nhưng có đầu óc kinh doanh , thủ công , mỹ nghệ . Tuy nhiên vẫn suốt đời vất vả , thường hay mắc nhiều tai ách và chẳng làm nên công cán gì . Loại nhà này chẳng thể ở lâu , phải mau chóng sửa , trị kịp thời .
Đại Sát là một sao đại hung họa , nên vào cung nào cũng hung . Giường ngủ hay bàn học của con trẻ , nếu để ở cung Đại Sát , được Sinh , Vượng Khí , thì học tài thi phận , thi cử không may . nếu gặp Tử , Tuyệt thì lười biếng , ham chơi lại hay nói dối .
Đặc biệt tối kỵ đặt bàn thờ vào cung Đại Sát , lúc đó sẽ có người điện khùng , hoảng loạn , cũng có thể sinh ra người cờ bạc , nghiện hút , đổ đốn , hư hỏng . Cung Đại Sát chỉ có thể đặt WC hay phòng tắm mà thôi .
6/ ĐỘC HỎA : Độc Hỏa là khí Hỏa thịnh vượng , là Hỏa khí do sự biến đổi của Âm - Dương tạo ra . Nó chính là khí Liêm Trinh nên mang nhiều sát khí . Độc Hỏa lâm môn thì Hỏa khí vượng , khiến dễ bị Hỏa tai hay bị Hỏa khí bốc lên đầu , mà sinh ra bệnh tật , đồng thời khiến cho những người sống trong nhà hay bị hồ đồ , lỗ mãng . Độc Hỏa lâm môn hay sinh ra những người nóng tính , liều lĩnh , hung bạo , thường làm những chuyện rồ dại . Độc Hỏa lâm môn cũng đồng nghĩa thóai tài , nghèo khổ .
Độc Hỏa là hung tinh nên khi đến cung nào cũng không tốt . Tuy vậy , Độc Hỏa là hung tinh nhưng không quyết liệt như Đại sát , Thiên Hình . Do vậy , Độc Hỏa chỉ thật sự gây tác hại khi đến cung đặt bàn thờ hay bếp . Những trường hợp khác có thể châm chước được . Bàn thờ và bếp là hai cung phát hỏa nên không bao giờ đặt bàn thờ và bếp vào cung có Độc Hỏa .

Thúc Đẩy Vị Trí Đào Hoa Tăng Cường Tình Duyên
( Tham khảo bản dịch của Thế Anh - http://vanhoaphuongdong.com ).

Huyệt vị đào hoa , theo quan niệm của Khoa Phong Thủy Trung Hoa gồm có ba hệ thống tính toán . Hệ thống đầu tiên là Lý Khí lại được chia làm hai . Phái Bát Trạch thì lấy cung Diên Niên của phi cung mỗi người làm căn cứ để thúc đẩy Đào Hoa hoặc căn cứ theo cửa để tính . Tức là Tý , Ngọ , Mão , Dậu tức là bốn vị trí của Đào Hoa , tức là chính Bắc, Nam, Đông ,Tây . Tất cả những nhà cửa lớn hướng Dần , Ngọ , Tuất , Đào Hoa nằm ở chính Đông . Cửa lớn hướng Thân , Tý , Thìn , Đào hoa tại hướng Nam . Cửa lớn hướng Hợi ,Mão ,Mùi Đào Hoa nằm chính Bắc .
Phái Cửu Tinh huyền không thì lấy sao Nhất Bạch thủy tinh làm Đào Hoa tinh , căn cứ cung vị nó đóng ở mỗi nhà , hoặc bay đến hàng năm để kê đặt cho đúng . Tuy nhiên phái này cũng coi Sao Nhất Bạch này là tán tài , giống như chúng ta ngày nay thường hay đùa nhau rằng : “Yêu là tốn trong nhà một ít !” .
Hệ thống tính dựa trên Sinh Tiêu ( Tuổi con gì ) thì đặc biệt coi trọng tính khác biệt của mỗi người , dù cùng chung một nhà nhưng tôi có Đào Hoa của tôi , anh có Đào Hoa của anh , “Hồn ai nấy giữ !” . Cách tính như sau :Năm sinh thuộc Thân Tý Thìn Đào Hoa Tại Tây Phương .
Năm sinh thuộc Dần Ngọ Tuất Đào Hoa tại Đông Phương .
Năm sinh thuộc Tỵ Dậu Sửu Đào Hoa tại Nam Phương .
Năm sinh tại Hợi Mão Mùi Đào Hoa tại Bắc phương .
Căn cứ vào tuổi của mỗi người , có thể bù đắp làm tốt thêm cho Đào Hoa vị , Đào Hoa chỉ thích hợp dùng cho người có cùng tuổi phù hợp càng quý hơn ( Nghĩa là đối tượng cùng vị trí Đào Hoa thì việc thành công càng dễ hơn ) .
Hệ thống cuối cùng thì đơn giản hơn nhiều . Bạn chỉ cần đứng trong nhà nhìn ra cửa bên tay trái của bạn sẽ là Thanh Long ứng với nam tính , bên tay phải là Bạch Hổ ứng với nữ tính . Nếu bạn là Nam thì dùng Bạch Hổ , Nữ thì dùng Thanh Long . Chia mỗi bên làm ba khoảng cách bằng nhau nếu bạn là con trai thứ 1, 4 , 7 thì dùng phần đầu bên Bạch Hổ , 2 , 5, 8 thì dùng vị trí thứ hai 3, 6, 9 thì dùng vị trí thứ ba . Nữ cũng thế mà suy ra cho bên Thanh Long . Xin lưu ý là tính thứ tự của mình thì tính anh em nam riêng , chị em nữ riêng .
Vậy trong ba cách tính Đào Hoa này thì nên chọn cái nào !? Theo tôi trước hết các bạn nên sử dụng theo cách tính của Bát Trạch và Cửu Tinh trước rồi sau đến sử dụng hướng của Sinh Tiêu , hướng cửa . Nếu các vị trí đó đều không thuận tiện để kê đặt thì sử dụng tới Thanh Long , Bạch Hổ .
Để sử dụng phép thúc đẩy Đào Hoa này các bạn có thể sử dụng các Bảo Khí dùng trong Phong Thủy hoặc sử dụng ngay các vật có sẵn trong nhà như giường ngủ , bình hoa , bề cá để kê đặt tăng cường cho Đào Hoa vận .
1. Giường Ngủ : Đây là phương pháp đơn giản mà không dễ , bạn chỉ cần căn cứ theo các phép tính toán như trên rồi kê giường nằm quay đầu và đặt trong cung vị đó là được . Tuy nhiên cần lưu ý tránh đừng để phạm vào các tiêu chuẩn khác của Khoa Phong Thủy . Song nếu bạn là người yêu mãnh liệt thì không ngại ! Tất cả cho tình yêu !
2. Bình Hoa : Tại các vị trí Đào Hoa đặt một bình nước trong , cắm hoa tươi . Đây là một biện pháp giản tiện , mà hiệu quả . Tuy nhiên có mấy điều các bạn cần lưu ý như sau :
- Bình Hoa nhất định phải có nước sạch và hoa tươi ! Nếu chỉ có bình không bạn sẽ phải đối đầu với sự bất hạn trong tình cảm , như yêu đơn phương , hoặc yêu mà không lấy được .
- Rất cần sử dụng hoa tươi , các loại hoa nhựa , hoa pha lê , hoa khô đều không có kết quả gì . Số cành tốt nhất là 4 vì tượng cho 4 vị trí Đào Hoa làm tăng thêm cơ hội cho bạn .
- Hoa tươi khi khô héo nhất định bạn phải thay hoa khác , nếu không nó tượng trưng cho tình yêu của bạn nửa đường đứt gánh , hoặc miễn cưỡng trong hôn nhân .
Màu sắc của bình hoa cũng nên phối hợp tốt với phương vị sẽ đặt . Như Đông , Đông Nam sử dụng màu xanh . Nam sử dụng màu đỏ , hồng . Bắc dùng màu lam , màu đen . Tây và Tây Bắc dùng màu kim , trắng . Tây Nam , Đông Bắc dùng màu vàng , màu cam . Nếu sử dụng theo cách tính Thanh Long , Bạch Hổ thì Thanh Long dùng màu xanh , Bạch Hổ dùng màu trắng .
Bình Hoa có thể sử dụng các chất liệu thuộc hành thổ như Gốm , Sứ , Pha Lê …v…v… bởi hoa vốn sinh trưởng trong đất !
Dùng hoa tốt nhất là dùng các màu sắc diễm lệ như đỏ thắm , phấn hồng , vàng , tím , các màu đen trắng rất kỵ .
Còn một vật dụng cũng rất quen thuộc nữ cũng dùng thúc đẩy lương duyên mà khoa phong thủy hay dùng đó là bể cá cảnh . Đương nhiên trong bể nhất định phải thả cá thật . Ngày nay do một số người ngại chăm sóc nên dùng bể cá điện tử , trường hợp này cũng tương tự như dùng hoa giả vậy . Mầu sắc của cá cũng khá quan trọng , nói chung là nên sử dụng các loại cá có màu sắc rạng rỡ , tươi tắn , cũng có thể dùng loại cá nhiều màu tha thướt . Tốt nhất là các loại có ánh kim . Xin các bạn lưu ý là không nên nuôi các loại cá thuộc dòng cá chép , bởi cá chép ( Lý Ngư ) chủ về thúc đẩy tài vận , sự nghiệp còn đối với Đào Hoa vận lại vô hiệu . Cá rồng thì càng không nên vì cá rồng sát khí quá mạnh , chủ về trấn sát , trừ tà .
Xin gợi ý với các bạn một chút về mầu sắc : Đối với những người thuộc phi cung Khảm ,Chấn , Tốn các bạn có thể dùng các có sắc xanh , lam , đỏ . Đối với người có phi cung Ly các bạn có thể dùng màu đỏ , xanh , vàng . Đối với người có phi cung Càn , Đoài nên dùng trắng , bạch kim , vàng . Phi cung Cấn , Khôn nên dùng đỏ , vàng , kim .
Có một điều mà sẽ ít người để ý đó là số lượng cá ; thật ra có nhiều thuyết đưa ra để tính số cá cần thiết ; tuy nhiên có hai điều cần chú ý : Tuyệt đối không thả một con ; nên có cặp đôi trống mái . Vì theo quy luật thiên nhiên thì nam nữ kết hợp mới sản sinh vạn vật .
Trên đây là một số cách thúc đẩy tình yêu theo quan niệm triết lý của Khoa Phong Thủy Á Đông . Mùa xuân về chính là mùa của vạn vật sinh sôi kết thành đôi lứa , chuẩn bị cho một mùa sinh sản mới . Tất cả bừng tỉnh sau một mùa đông dài lạnh giá . Còn các bạn hãy lạc quan cho tình yêu của mình và thử áp dụng thêm các cách trang trí này xem . Hiệu quả đến đâu tự các bạn sẽ chiêm nghiệm , nhưng có một điều quan trọng là các bạn còn yêu và muốn được yêu .
Có một điều nói khẽ là các biện pháp này chỉ dùng cho các bạn chưa có gia đình . Đối với người đã có gia đình thì không có lợi , lại còn hại , vì bạn sẽ vô tình đẩy bạn đời của mình vào tay người khác , hoặc tự chuốc cho mình những rắc rối về tình cảm . Xin hãy cẩn thận !
Tuy nhiên nếu để bảo vệ hạnh phúc của gia đình mình thì bạn cũng nên nắm rõ vị trí Đào Hoa của mọi người trong gia đình mình để hóa giải , bảo vệ hạnh phúc gia đình . Với chủ đề này xin hẹn một dịp khác

13 / SỬ DỤNG GƯƠNG TRONG PHONG THỦY .

Trước hết nói về tấm gương:
1/ Những tấm gương có tác dụng phản chiếu:Khi người ta không muốn nhận các tia hay các nguồn sáng, các dòng Khí ( Qi )đi vào nhà hay một phần nào đó của ngôi nhà , người ta thường dùng gương để phản chiếu nhằm đẩy hắt các tia hay dòng khí đó đi. Khi căn nhà có hướng không hợp với tuổi chủ nhà, người ta thường đặt một tấm gương ở mặt tiền căn nhà để hóa giải những bất lợi.
2/ Gương soi làm cho các vị trí mờ tối được sáng sủa lên. Ví như trong căn nhà, hướng Đông Nam là cung Tài lộc, hướng Tây Bắc là cung Quý nhân phù trợ, hướng Chánh Nam là cung Danh vọng, Hướng Chánh Bắc là cung Nghề nhgiệp, hướng Chánh Tây là cung con cái, hướng Chánh đông là cung Gia đạo, hướng Đông Bắc là cung Kiến thức, hương Tây Nam là cung Hôn nhân . Khi trong nhà phát sinh ra sự xấu, ví dụ như Gia đạo lộn xộn, xào xáo, người ta đặt gương và những bóng đèn ở cung Chánh Đông của ngôi nhà, tự nhiên mọi việc được hóa giải....Đây là cách trấn yểm dùng để khắc phục những sự xấu phát sinh trong nhà.
3/ Gương có tác dụng làm mất đi những góc cạnh hay khiếm khuyết của ngôi nhà. Nếu ngôi nhà hương Tây bị khuyết góc chẳng hạn, sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của Thiếu nữ sống trong nhà.Người ta dùng gương lắp vào góc khuyết làm mất đi sự khiếm khuyết đó.
Gương còn có tác dụng hóa giải những cấy to hay trụ điện trước cửa - Trường hợp này người ta hay dùng gương lồi hay lõm.
4/Gương soi có thể hóa giải cho những cầu thang đổ ra đường
( Làm cho tiền bạc trong nhà đổ ra vì hình tượng cầu thang đổ ra đường có hình như một thác nước ). Người ta dùng một tấm gương để hóa giải điều đó. Lúc đó có hai cầu thang thật và ảo giống như hai con Rồng âm và dương đối diện nhau. Bởi lẽ " Nhất âm nhất dương chi vi Đạo" nên hai con Rồng tương tác, hóa giải được việc cầu thang đổ ra đường.
5 /Gương soi còn có tác dụng làm cho căn phòng thêm rộng ra, có thể rời đổi vị trí của đồ vật kê trong phòng mà trong thực tế ta không có khả năng dời đổi. Tác dụng này được sử dụng rất nhiều trong các trường hợp đồ vật để không đúng chỗ mà người ta không thể dịch chuyển chúng sang vị trí khác. Lúc đó ta dùng gương làm cho vật đó như đã được đổi chỗ.
Một điều rất quan trọng là khi đặt gương như thế nào cụ thể trong nhà, bạn phải tính toán hết sức cẩn thẩn, vì đôi khi chỉ có một mảng gương bằng bàn tay để không đúng chỗ sẽ làm cho cuộc sống của bạn đi về một hướng khác.


















PHẦN HAI LÀ NÓI VỀ NHỮNG NÉT PHÙ ĐƯỢC VẼ TRÊN GƯƠNG. 
Thông thường các bạn chỉ tiếp xúc với những tấm gương bán trên thị trường đã vẽ sẵn Tiên Thiên hay Hậu Thiên Bát quái.
Trong thực tế đó chỉ là một trong các dạng Linh phù, thường được các Pháp sư vẽ trên gương, hay bảng gỗ, kim loại...Những Linh phù này theo Huyền môn có tác dụng hóa giải những tác dụng xấu của ngôi nhà về nhiều mặt, đây cũng là một dạng Trấn yểm mà các Pháp sư hay dùng để hóa giải những cái xấu trong căn nhà.
Trong các dạng Linh phù ( Hay còn gọi là Bùa ), thì các Linh phù dùng Bát quái có công năng giải trừ những điều xấu rất mạnh. Chính vì vậy, các Pháp sư từ xưa đến nay sử dụng rất thông dụng trong việc Trấn yểm nhà cửa.
Trong việc trấn Trạch, người ta không chỉ sử dụng hai dạng Bát quái Tiên Thiên và Hậu Thiên cơ bản có bán sẵn trên Thị trường để Trấn yểm, mà người Pháp sư có học qua môn CẢM XẠ PHONG THỦY phải biết sử dụng cả 64 gương Bát quái khi Trấn trạch. Tuỳ theo Sơn và Hướng của từng ngôi nhà cụ thể, người ta có những QUẺ THU VÀ PHÁT của Bát quái để vẽ trên gương. Như vậy chúng ta thấy rằng, hai loại gương Bát quái vẽ sẵn bán trên Thị trường chỉ là hai trường hợp của 64 phương pháp Trấn trạch bằng gương Bát quái.
Ngoài ra,rất nhiều khi, người ta sử dụng gương để Trấn trạch mà không sử dụng Linh phù Bát quái, mà tùy theo sự xấu xẩy ra trong nhà, người ta vẽ các Linh phù khác nhau lên gương để Trấn yểm.

 14 / HÓA GIẢI HÌNH SÁT :
Trên thực tế, ít khi thấy một ngôi nhà hội đủ những mặt đúng và tốt theo Phong thuỷ. Do vậy, Phong thuỷ học đưa ra những phương pháp hoá giải hình sát, đó là những hình thế mang sát khí ở phía bên ngoài ngôi nhà. Sau đây là cách hoá giải những hình sát thường gặp.
1. Phản quang sát:
Đó là những ngôi nhà gần sông, hồ, biển, ao lớn, khi sáng hay chiều tà, ánh nắng mặt trời chiếu xuống mặt nước khúc xạ rồi lại hắt ánh nắng vào nhà làm cho đầu óc người ta tối tăm, tinh thần tán loạn, có khi gây bệnh nặng nguy đến tính mạng. Mặt nước như vậy được phong thuỷ gọi là “gương soi chậu máu”. Một dạng phản quang sát khác thường thấy ở đô thị, nơi nhiều nhà cao tầng, bên ngoài gắn nhiều kính và gương, khi ánh nắng mặt trời chiếu nghiêng, sẽ phản quang chiếu xạ vào nhà đối diện. Phản quang sát như vậy khiến người ở đó dễ mắc bệnh về máu hoặc gặp tai nạn do va đập. Hoá gỉai phản quang sát có thể dùng giấy nhám có keo dính thấu suốt dán lên kính nơi ánh nắng hay chiếu vào. Ngoài ra còn dùng hai xâu minh chú hồ lô treo ở hai bên góc cửa sổ. Nếu phản quang sát mạnh thì đặt thêm hai xâu tiền cổ ngũ để phối hợp với bạch ngọc minh chú. Nếu phản quang yếu thì không cần thêm hồ lô gỗ.
2. Liêm đao sát: 
Đó là đất bằng có hình đường cong mà lưng cong quay về phía nhà, có sức sát thương lớn gây đổ máu. Cách hoá gỉai: ở cát phương đặt một đôi ngựa đồng và ngũ đế bạch ngọc thì có thể hoá gỉai được.
3. Thương sát: 
Đây là một loại sát khí vô hình, phong thuỷ gọi là “nhất điều đạo lộ, nhất điều thương”, tức là có một hành lang thẳng và dài đối thẳng với cửa chính ngôi nhà. Ngoài ra ở ngoài cửa sổ có trồng trúc lá nhọn chĩa vào, cũng là thương sát. Lấy nhà mình làm trung tâm, thấy có đường thẳng hoặc dòng sông chĩa thẳng vào nếu khi mở cửa sổ ra quan sát được, cũng là thương sát. Ảnh hưởng: tai nạn chẩy máu, bệnh tật. Cách hoá gỉai: treo rèm hạt châu hoặc làm bình phong. Hoặc ở cửa sổ treo một đôi chuông gió kỳ lân hoặc đặt kim nguyên bảo.
4. Bạch hổ sát: 
Bạch hổ sát là bên phải nhà đang ở, hàng xóm phá thổ; hoặc bên phải nhà có một toà nhà xây lên hoặc phá đi. Ảnh hưởng đến bệnh tật. Cách hoá gỉai : cạnh tường bị xung sát đặt hai xâu ngũ đế bạch ngọc hoặc hai con kỳ lân cùng với minh chú hồ lô.
5. Thiên trảm sát: 
Nếu từ ngôi nhà mình ở nhìn ra ngoài thấy phía trước có hai toà nhà cao tầng rất gần mà giữa hai nhà cao tầng ấy hình thành một kẽ hở rất hẹp, nhìn vào như chiếc búa trời chém xuống tách làm đôi sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ và gây tai nạn. Hoá gỉai: đơn giản là đặt ngựa đồng hoặc một đôi kỳ lân đặt ở chỗ sát khí xông đến để ngăn sát.
6. Pháo đài sát:
Có những ngôi nhà nằm đối diện với một toà kiến trúc có hai khẩu pháo thật hoặc gỉa chĩa vào, gặp trường hợp này là phạm sát, khiến người ở tính khí cục cằn, do lợi mà mất nghĩa tình . Vì sát khí ở đây rất lớn, cho nên vật hoá sát cũng phải nhiều, như ở hai bên cửa sổ treo đôi chuông gió kỳ lân, ở giữa cửa đặt tiền cổ ngũ đế và 5 xâu minh chú hồ lô.
7. Khai khẩu sát: 
Khai khẩu sát là ngôi nhà có cửa chính đối diện với cửa cầu thang máy của một ngôi nhà khác; khi ta mở cửa nhà, thấy cánh cửa cầu thang máy mở ra, nhìn vào như một cái mồm to muốn nuốt mình. Trường hợp này có thể tốt mà cũng có thể xấu, như người xưa nói: “Xung khởi lạc cung vô giá bảo”, nghĩa là: khi đang gặp vận tốt thì có chuyện vui mừng, nhưng khi vận xuống thì người trong nhà gặp cảnh ốm đau hoặc tán tài. Hoá gỉai khai khẩu sát: cửa treo rèm, trên đó có minh chú quan âm, thêm một bộ tiền ngũ đế, nếu để kín trong chốt cửa thì càng có hiệu qủa.
8. Đao sát: 
Đó là hình vật giống như con dao chĩa thẳng vào nhà. Trong thành phố, nhiều toà nhà cao tầng có lối kiến trúc dài, một đầu nhà trông giống cán chuôi dao chĩa vào một khu nhà cao tầng khác, như ở Hồng Kông, trung tâm ngân hàng Hưng Cảng có đầu hồi giống cán dao chĩa vào phủ Thống đốc. Phạm sát này, phong thuỷ cho rằng dễ bị thương nạn. Hoá gỉai đao sát: ở trong nhà đặt long thần toạ đã đánh bóng thì hoá gỉai được sát này.
9. Xung sát: 
Hiện nay, do tốc độ xây dựng ngày càng nhanh và ngày càng nhiều ngôi nhà chọc trời , theo phong thuỷ học, người ở từ tầng lầu thứ 5 trở xuống dễ bị xung sát, vì hay bị cột đèn hoặc cây cối ngăn cản. Phạm sát này người ta dễ bị nhiễm bệnh. Hoá gỉai sát này dùng tiền cổ văn xương ngũ đế đã đánh bóng treo trong nhà; hoặc cửa đối diện với cây cối, cột điện treo rèm hạt châu hay bình phong.
10. Cô dương sát: 
Là khi nơi ở gần trạm biến thế điện, trạm bán xăng dầu, trạm bán gas, người ở nơi đây tính tình bất định, thô bạo, vì lợi mà vất bỏ tình nghĩa, trong nhà hay xô sát, cãi nhau. Hoá gỉai bằng cách lấy hồ lô gỗ đánh bóng và la bàn bát quái treo phía tường giáp các vật gây sát nói trên. Nếu chủ nhà ốm yếu, nhiều bệnh thì treo thêm hai xâu minh chú hồ lô cũng ở vị trí này.
11. Độc âm sát:
Là loại hình sát khi trước nhà cao tầng có nhà vệ sinh công cộng, hoặc nơi thu mua phế liệu, nơi gom rác. Nhà ở từ 5 tầng trở xuống thường phạm loại độc âm sát này. Nếu các trạm thu gom rác thải hay nhà vệ sinh càng gần nhà, thì độc âm sát càng nặng, ảnh hưởng đến sức khoẻ mọi hành viên trong gia đình, hao tài tốn của. Nếu độc âm sát đến từ bên ngoài, ở trong nhà đặt hồ lô gỗ và tiền cổ ngũ đế có thể hoá gỉai sát khí; nếu độc âm sát đến từ trong nhà, thì căn buồng cạnh nhà vệ sinh treo 4 xâu minh chú hồ lô.
12. Thanh sát:
Âm thanh có thể làm rung động lòng người, cũng có khi gây khó chịu cho con người, gây ảnh hưởng hoặc bệnh thần kinh, khi đó âm thanh trở thành thanh sát. Nhà ở gần sân bay, bến tàu, ga xe, đường sắt… đều có thanh sát. Thanh sát nếu xuất hiện từ phương Tây Nam( phương Khôn) là hung nhất. Trong trường hợp này, hoá sát bằng cách đặt hồ lô đồng hoặc hai xâu chuông gió kỳ lân ở phương Khôn để hút hung khí. Tuy vậy cũng không thể loại trừ âm thanh bên tai, cách thông thường phải đóng kín cửa nhà.
13. Cân trời xung xạ sát:
Là nơi ở gần công trường xây dựng quy mô lớn, cạnh đó có tháp cần trục cao để nâng vật liệu, khi mở cửa ra thấy cần trục là phạm cân trời xung xạ sát. ảnh hưởng của sát khí này thường gây bệnh mắt hoặc dễ bị thương. Hoá gỉai sát khí này bằng cách đặt ngay phía xung sát long thần toạ và tiền cổ ngũ đế phối với bạch ngọc.
14. Tiêm xạ sát:
Gần giống thương sát nói trên, chỉ khác có nhiều góc nhọn và chúng không tập trung chỉ một hướng nhất định. Ví dụ trong nhà đặt núi gỉa có đá nhọn, các tượng hay hình điêu khắc có các mũi nhọn chỉ vào đâu đó trong nhà. Khi mở cửa ra, nhìn thấy núi với vô số mũi đá nhọn chĩa vào, cũng gọi là tiêm xạ sát. Cách hoá gỉai: đặt chén liên hoa tại phương sát ở trong nhà và tiền cổ ngũ đế có thể không chế sát khí này.
15. Phản cung sát:
Là phía trước ngôi nhà có đường hình cong mà lưng cong lại đối diện với cửa nhà, phạm sát này dễ bị tai nạn hoặc tiêu tốn nhiều tiền của một cách vô ích. Nếu phản cung sát nằm ở phía Đông Tây ngôi nhà thì sức sát thương càng lớn; nếu xuất hiện ở cạnh một thôn xóm, cả thôn sẽ có nhiều người bị tai nạn, hao tốn tiền của. Nếu phản cung sát lại là khúc sông hay con ngòi, thì sức sát của nó càng lớn. Do vậy, khi mua nhà, người ta hết sức chú ý địa hình xung quanh. Hoá gỉai sát này dùng đồng tử vận tài đánh bóng để đặt trong nhà gỉai sát, đặt minh chú hồ lô và tiền cổ ngũ đế đặt ở phía phản cung chĩa vào nhà mình. Cũng có thể đặt một đôi kỳ lân đặt ở phương phạm sát để ngăn sát.
16. Hỏa hình sát:
Khi ngoài nhà có những vật thể nhọn sắc xung xạ chiếu đến, như: góc tường nhà cao tầng, góc đình, những pho tượng nghệ thuật dựng ở công viên…, ống khói từ 3 cái trở lên, tam giác, góc nhọn, góc rẽ của con đường chĩa thẳng vào nhà. ảnh hưởng của sát này rất mạnh, thường gây bệnh đường ruột, nhà dễ bị hỏa hoạn. Hoá gỉai bằng cách dùng gấu trắng bằng đồng để ngăn sát, hoặc dưới cửa treo tiền đồng để tăng sức mạnh hoá gỉai sát khí từ bốn phương.
17. Liêm trinh sát: 
Khi lưng nhà dựa núi, theo phong thuỷ là cát tướng, đó là “đằng sau dựa minh sơn là nắm quyền”. Nhưng núi dựa phải có cây cỏ tốt tươi, hình dáng thanh tú. Nếu núi dựa ít cây cối, đá lộ ra lởm chởm, phong thuỷ gọi là liêm trinh sát, làm cho tài năng người ở bị thui chột, không phát huy được. Nếu bản thân là công chức thì không có thực quyền, nếu có quyền thì cấp dưới không phục, hay chống đối. Hoá gỉai bằng cách: thường buông rèm cửa sổ, ở phưng phạm sát đeo hồ lô hoặc 2 xâu ngũ đế mịnh chú. Nếu nặng dùng 4 đôi gấu trắng để ngăn sát.
18. Thích diện sát:
Trường hợp trước cửa hoặc cửa sổ thấy sườn núi nhấp nhô, gọi là thích diện sát. Loại này làm cho người trong nhà dễ bị người khác đánh đập hoặc bị thương, hoặc dễ có hành vi phạm pháp. Hoá gỉai bằng cách treo hai xâu mịnh chú hồ lô hoặc tượng voi bằng đồng trước cửa hoặc cửa sổ.
19. Ngô công sát:
Khi mở cửa nhà hay cửa sổ nhìn thấy những vật thể như ống dẫn nước, cống dẫn nước bẩn, có ống chính và ống phụ trông như con rết. Ảnh hưởng: người ở hay bị đơm chuyện đặt điều, công việc không thuận lợi. Hóa gỉai bằng cách dùng một đôi gà đồng đặt ở phương phạm sát.
20. Đỉnh tâm sát:
 Là trước cửa hay cửa sổ có cột đèn, biển chỉ đường, biển quảng cáo, chúng sẽ tạo ra xung xạ vào nhà, làm cho người ở tính bất định , hay cáu gắt, dễ bị tai nạn. Hoá gỉai bằng cách dùng 2 xâu ngũ đế minh chú để chế sát.
Những quan niệm khống chế hình sát theo quan điểm của Phong thuỷ học nêu trên, chỉ có giá trị tham khảo .Tài liệu dienbatn sưu tầm của tác giả Quảng Tuệ .

15 / Nhà ở và phân gian .
Phong thuỷ học cho rằng, ngôi nhà tuy nằm trên mảnh đất đẹp về hình và thế, chọn phương và hướng đúng phong thuỷ, song việc bố trí phân gian các căn phòng trong khuôn viên căn nhà không đúng cách cũng gây bất lợi. Về vấn đề này, người xưa quan niệm như sau:
Nhà ở lớn người ít thì dương khí không đủ, thiếu sự phát triển, dần dần đi đến suy vi, nghèo khó. Theo quan điểm của xã hội hiện đại, điều đó có thể có căn cứ vì những lý do sau đây: chủ nhà mất thời gian và mệt nhọc phải quét dọn, làm vệ sinh các căn phòng; phòng không có người ở lâu ngày ẩm thấp, mốc meo, ánh sáng không đủ, không thông gió sẽ mau hỏng; về tâm lý học, không gian quá rộng khiến người ở cảm thấy không ổn định. Các nhà kiến trúc, môi trường đưa ra cách tính diện tích ở hợp lý theo số người như sau:
- Đối với nhà đông người, lấy tổng số tuổi của mọi người trong nhà nhân với 1m vuông chính là tổng diện tích quy ra mét vuông ngôi nhà gồm phòng khách, phòng ngủ bố mẹ, phòng ngủ con cái, phòng ăn, nhà tắm và vệ sinh. Như một gia đình có 4 người, chồng 35 tuổi, vợ 30, con 9 tuổi và 6 tuổi, tổng số tuổi của họ là 80, vậy diện tích ở thích hợp là 80 m vuông.
- Một cách tính khác là tính theo từng đầu người, như phòng ở bố mẹ là 50m vuông, con chưa đến tuổi đi học là 10m vuông, con học mẫu giáo, tiểu học, phổ thông trung học mỗi suất 15m vuông, học đại học trở lên và người già mỗi người 20m vuông. So với cách tính qua ví dụ trên, kết qủa như nhau.
Nhà ở nhỏ người đông theo bí truyền dương trạch là tướng tôn quý phồn vinh. Phong thuỷ cho rằng, ở trường hợp này do người đông nên dương khí sung mãn, sinh khí tràn đầy, báo sự phát triển dần thành giàu có, làm ăn phát đạt. Tuy vậy ở ngôi nhà này phòng khách phi rộng rãi thích đáng, các phòng khác phi thiết kế đặc biệt để có thể sử dụng hết công suất.
Nhà ở chiều sâu dài hơn chiều ngang. Chiều sâu nhà tính từ cổng trước đến cổng sau, chiều rộng tính từ bên trái đến tường bên phải. Người xưa cho loại nhà này là cát lành. Nếu chiều sâu không dài, tuy có khí phồn vinh nhưng không bền. Quan điểm này có cơ sở bởi Trung Hoa cổ xưa tiền thuế đất ở tính theo chiều rộng sát mặt đường; mặt khác chiều sâu nhà dài ngăn gian dễ. Để giữ được bí mật trong nhà thì các phòng đều ngăn lùi về phía sau là thuận nhất.
Nhà ở bề ngang dài hơn bề sâu. Theo Phong thuỷ học, nhà bề ngang rộng hơn bề sâu, người nhà dễ sinh bệnh, là hung. Ngày nay các ngôi nhà được xây dựng thường bị ảnh hưởng bởi địa thế đất mà người ta có. Sau khi xây dựng, tỷ lệ bề ngang gấp đôi bề sâu, Phong thuỷ cho là được. Song loại nhà này có nhược điểm làm cho từng thành viên trong nhà sống không độc lập, sắp xếp đồ đạc thường khó khăn.
Nhà ở ngăn 3-4 gian. Theo thuật số Trung Hoa cổ xưa phán đoán sự cát hung trong kiến trúc theo số gian của ngôi nhà: một gian là cát, hai gian không chướng ngại, 3-4 gian là hung, 5, 6, 7 gian là cát, 8 gian là hung, 9 gian là cát.
Gia đình hiện đại thông thường có ba loại không gian: không gian ngủ, bao gồm phòng ngủ của vợ chồng, của con cái là hai làm chuẩn, nếu có ông bà phải có phòng riêng, ngoài ra có nhà tắm nhà vệ sinh; không gian ăn uống bao gồm nhà bếp, nhà ăn; không gian dùng vào việc khác như phòng khách, phòng đọc sách, tiền sảnh, ban công, nhà kho, nhà xe…Theo ba loại không gian, loại nhà rộng để ngăn phòng như trên không phải ai cũng có. Vì vậy, người ta thường gộp lại dùng chung mấy loại không gian, như vậy nhà ngăn 3,4 gian là không đủ dùng. Nhưng nhà quá nhỏ ngăn ra nhiều phòng là không dễ, mà có được cũng không tiện. Có lúc người ta dùng chung phòng ăn, phòng khách dùng chung làm một, làm cho nhà hung trở thành nhà cát.
Gian giữa ngôi nhà khi trở thành không gian vô dụng. Theo gia tướng học, gian giữa ngôi nhà được cho là gian quan trọng nhất. Nếu gian giữa nhà bố trí thành giếng trời, nhà tắm, nhà vệ sinh hoặc thành một không gian vô dụng sẽ là hung tướng, quyền uy của chủ nhà ngày càng sa sút.
Gian giữa nhà tốt nhất nên bố trí là tiền sảnh để mọi người trong nhà có thể tụ họp chuyện trò, vui chi gỉai trí hoặc nghỉ ngi. Nơi đây có lúc dùng làm phòng tiếp khách hoặc phòng ăn. Gian này phải mở nhiều cửa sổ và cửa rộng để người ra vào dễ dàng, nên đặt ghế ngồi, ti vi, máy hát ở đây. Gian phòng này phải rộng, thoáng, độ cao từ 8 điệp (2,4m) đến 12 điệp ( 3,6m), phía Đông Nam cần có cửa sổ để thông gió.
Phòng ngủ của chủ nhà đặt giữa nhà. Trong gia tướng học, phương vị có liên quan rất nhiều đến sự cát hung cho người ở, nguyên điểm quan trọng nhất của phương vị là điểm trung tâm của nhà. Ngôi nhà là tượng trưng cho địa vị quyền thế của người chủ, nên gian giữa bố trí làm phòng ngủ của chủ nhà là thích hợp nhất.
Nhà ở hiện đại, phòng ngủ thường đặt ở một góc nhà, theo gia tướng học địa vị chủ yếu của chủ nhà không được tôn trọng, trong nhà hay xẩy ra tranh chấp, thiếu không khí thân mật và ấm áp trong nhà, dẫn tới người chủ nhà càng tìm cơ hội tìm niềm vui bên ngoài, không muốn về nhà, tính cách tiêu cực, gia đạo ngày càng suy vi, về cuối không cứu vãn nổi, gia đình tan nát.
Cửa chính và cổng thành một đường thẳng. Cổng và cửa chính ngôi nhà thành một đường thẳng, theo gia tướng học có sát khí, không lợi cho người ở. Về lý thông thường, cửa, cổng như vậy dễ để người ngoài dò xét nội tình bên trong căn nhà, cho nên người xưa làm cổng hơi lệch về trái hoặc về phải một chút để cho nhà kín đáo. Ngày nay đất chật người đông, nhiều nhà không có cổng, chỉ có cửa chính ra vào, Phong thuỷ khuyên nên làm cánh cửa đẩy vào trong, cửa sẽ kín đáo và an toàn hơn, còn có hàm ý như đón mời khách vào nhà, nhà sẽ nhiều khách. Nhà đông khách là đầy sinh khí, cuộc sống và làm ăn phát đạt. Người xưa có câu: “Môn đa khách đáo thiên tài đáo, gia hữu nhân lai vạn vật lai ”( cửa rộng thì tài nhiều, nhà nhiều người lui tới phát đạt giàu có).
Nhà ở không mở cửa sau. Theo sách cổ Lạc địa của Trung Hoa cổ đại, nhà dù lớn hay nhỏ mà không có cửa sau thì không nên ở, vì ở vợ chồng trước sau cũng ly tán, người mất người còn. Cái lý của quan niệm này do xưa có kẻ thù có khi đến gây hại, nếu không có cửa sau không có lối thoát hiểm. Của sau cũng có thể là cửa sổ, nếu không như cách nói của phong thuỷ sẽ gặp hung hoạ.
Theo quan điểm của vệ sinh phòng bệnh hiện đại, nhà có cửa trước không cửa sau không khí không lưu thông, không có sự thông gió, thấp khí nặng, ảnh hưởng tới sức khoẻ người trong nhà.
Nhà ở hướng về Nam các phòng đặt bên phía Tây, buổi sáng có đủ ánh sáng mặt trời, mùa Đông rất ấm áp, mùa hè gió nồm nam thổi tới, mùa Đông ngăn được gió lạnh từ Đông Bắc về, do vậy đây là ngôi nhà cát tướng.
Phòng ngủ và cửa chính thành một đường thẳng. Sự ngủ và phòng ngủ là quan trọng đối với cuộc sống mỗi người. Người xưa khi bố trí phòng ngủ bao giờ cũng suy xét hai điều kiện là an toàn và yên tĩnh, an toàn được đặt lên vị trí hàng đầu.Phòng ngủ gần cổng, gần cửa chính đều có sát khí, người xưa cho là dễ bị kẻ xấu quấy rối, đột kích.
Phòng ngủ và cửa chính thành đường thẳng, khách đến nhà phải đi qua phòng ngủ khiến người ta cảm thấy không an toàn, không tiện lợi nên ngủ không yên.
Phòng ngủ cạnh bếp. Người xưa không bao giờ đặt phòng ngủ cạnh bếp vì cho là hung. Trên thực tế, phòng ngủ cạnh bếp bị nhiễm nhiều tiếng ồn, vì nơi đây nhiều người qua lại, nói năng ồn ào, dễ bị hỏa hoạn. Phòng ngủ tốt nhất đặt nơi ngăn cách với bên ngoài; nơi ít người qua lại nhất và an toàn nhất. Ngoài ra phòng ngủ phải luôn thông gió mới đảm bảo sức khoẻ cho con người.
Từ ngoài nhìn thấy bếp trong nhà bếp. Theo gia tướng học, người ngoài cửa thấy được lửa khi bếp đang đun là không tốt, vì người xưa cho rằng lửa là thần linh nên không để ai nhìn thấy. Theo lý thông thường, nhà bếp như chỗ hậu sân khấu, theo quan điểm mỹ học, không nên để người ngoài nhìn vào nơi lộn xộn này. Phong thuỷ học còn cho rằng, nhà bếp sạch sẽ không mùi hôi thì mới làm ăn phát đạt, gia đình hưng vượng.
Nhà vệ sinh đặt ở giữa nhà. 
Theo lý thông thường, nhà vệ sinh đặt giữa ngôi nhà là thiếu mỹ quan, vì nó phá mất bố cục chung của ngôi nhà. Nhưng có người cho là tiện, vì mọi người ở các phòng khác nhau có thể vào đó mà không làm phiền nhau. Trong gia tướng học, người ta rất coi trọng vị trí trung tâm ngôi nhà, coi đây là vị trí tốt nhất cho chủ nhà, chỉ có thể đặt nhà tiền sảnh hoặc nhà khách là hợp lý nhất. Nếu nhà vệ sinh đã đặt ở giữa nhà, phải chú ý khâu vệ sinh, không cho mùi hôi bốc ra xung quanh. Xong cũng không nên đặt nhà vệ sinh ở giữa nhà, phong thuỷ cho như vậy là không cát.
Cầu thang đặt ở giữa nhà là không tiện, vì trong gia tướng học, giữa nhà là nơi quan trọng của chủ nhân, nên tốt nhất là phòng ngủ của chủ nhà; cầu thang đặt ở giữa nhà, khác nào cắt đôi ngôi nhà, làm mất đi vẻ hoàn chỉnh ngôi nhà đó, phong thuỷ cho như vậy sẽ ảnh hưởng tới hạnh phúc của toàn gia. Việc bố trí cầu thang phải căn cứ vào tình hình các phòng ở tầng trên mà quyết định, thường nên đặt ở sát rường. Nếu phòng khách đặt ở tầng trên thì cầu thang nên đặt gần cổng để khi khách đến nhà đi thẳng lên phòng khách. Nếu phòng ngủ đặt ở các tầng trên thì cầu thang nên đặt ở góc cửa chính, hoặc cạnh nhà ăn, nhà bếp.
Cửa sổ đặt ở hướng Bắc ngôi nhà, người xưa cho rằng kinh nguyệt của phụ nữ trong nhà không đều. Đông y cho rằng, môi trường lạnh lẽo cũng gây bệnh phụ nữ. Ở Việt Nam, cửa sổ đặt hướng Bắc, gió mùa đông Bắc lạnh lẽo sẽ thổi vào nhà, khiến ở trong nhà rất khó chịu, nhất là đối với phụ nữ, nên dễ gây bệnh cho họ. Nếu phải mở cửa sổ hướng Bắc,thì nên mở cửa sổ nhỏ đủ để thông gió; cửa nên làm hai lớp kính để chống lạnh.
Nhà hướng Tây, mở cửa sổ hướng Nam, theo bí tryền của phong thuỷ là cát,nhất là mở cửa sổ lớn. Tuy vậy cũng nên một cửa sổ nhỏ hướng bắc để thông gió, làm cho mùa hè đến thì mát.
Nhà bếp hướng Đông. Theo phong thuỷ học, nhà bếp hướng về Đông hoặc Đông Nam là cát. Cái lý ở đây theo học thuyết ngũ hành: đốt mộc thì sinh hỏa, mộc thuộc Đông, hỏa thuộc Nam, sự nhóm lửa của bếp là có sự sinh, cho nên nhà bếp ở hai hướng này là cát. Theo quan điểm môi trường sinh thái, nhà bếp ở hai hướng nói trên là tốt. Buổi sáng nhiệt độ thấp nhưng được ánh sáng mặt trời chiếu vào, buổi chiều nhiệt độ cao lại trở thành nơi mát mẻ, việc bảo quản thức ăn và thực phẩm dễ dàng.
Xây thêm nhà phụ ở hướng Tây nhà chính. Theo phong thuỷ học, nếu xây thêm nhà phụ ở phía Tây nhà chính là dấu hiệu phồn vinh của gia chủ, nếu có hành lang liên kết hai nhà lại thì được cát tướng. Tuy vậy, khi xây nhà phụ, điều đầu tiên khi chọn hướng không cản trở nhà chính. Vì nếu nhà phụ đặt ở phía Đông hoặc Nam sẽ cản trở sự thông gió và ánh sáng của nhà chính, nếu đặt ở phía Bắc thì sẽ bị nhà chính che chắn hòan toàn, thông gió không tốt. Nếu nhà chính và nhà phụ có hành lang thông nhau thì không phải đi qua các phòng khác, không ảnh hưởng tới sự kín đáo của phòng khác, điều mà phong thuỷ học cho là không tạo ra sát khí.
Trên đây là cách phân gian trong một ngôi nhà theo phong thuỷ học, quan niệm này chỉ có giá trị tham khảo.
Tài liệu dienbatn sưu tầm của tác giả Quảng Tuệ

16 / NHỮNG LỐI KIẾN TRÚC GÂY TAI HẠI .
Ngày nay, khi xây dựng những công trình dân sinh, người ta thường thiết kế theo trường phái công năng, tạo điều kiện tiện dụng tối đa cho người ở. Theo Phong thuỷ học, nhiều khu nhà theo lối kiến trúc này, cũng gây những sự cố về tài vận và sức khoẻ cho người ở. Sau đây là những lối kiến trúc thường gặp, dưới góc nhìn của phong thuỷ học là chưa ổn.
Hành lang giữa nhà, chủ sẽ phân ly
Trong các ngôi nhà cao tầng hiện đại, thang máy và hành lang thường ở trung tâm nhà, các phòng tỏa ra 4 hướng, 6 phương…, nhiều trường hợp hành lang đặt giữa nhà, Phong thuỷ học cho rằng, đó là lối thiết kế gây xấu nhất cho người ở.
Có những đơn nguyên tương đối lớn, bước vào cửa đã là phòng khách, phòng ăn, cửa chính đối thẳng với hành lang mà độ dài hành lang bằng nửa diện tích nhà. Tình hình càng bất lợi hơn đối với người ở, khi nhà vệ sinh lại ở hai bên hành lang. Nếu kiến trúc nhà ở như vậy, chủ nhà thường dễ phân ly hoặc bệnh tật, vận thế cũng đi xuống. Phong thuỷ học cho rằng, để hoá gỉai sát trong trường hợp này, tốt nhất là dùng rèm treo cửa bằng vỏ ốc hến.
Cái xà cái cột gây bệnh
Trong kiến trúc hiện đại xưa và nay khác nhau về sử dụng vật liệu, tạo dáng… mà còn khác nhau về cái cột cái kèo (hay xà). Cột kèo của người Việt Nam, Trung Hoa xưa phần lớn là hình tròn, nếu có dùng hình vuông thì bao giờ người ta cũng vuốt bỏ góc nhọn đi. Kiến trúc hiện đại, cột bằng bê tông, hầu như là hình vuông. Về kết cấu xây dựng không thể không có cột xà, Phong thuỷ học cho rằng, những cột phải dấu trong tường, không lộ ra, vị trí dầm cần tính toán hợp lý cho bố trí nội thất. Với loại nhà này, vị trí đặt giường ngủ cần cân nhắc, nếu nơi ngủ bị xà (hoặc kèo) đè, sẽ sinh ốm đau, vận thế đi xuống.
Làm ăn lụn bại vì hướng cửa sai
Phong thuỷ học cho rằng, phưng vị của cửa là chủ sát hung hoặc cát đối với chủ hộ, do vậy khi xây nhà hoặc mua nhà, người ta rất chú ý điều này. Một nữ doanh nhân tuổi Mùi, người Hồng Kông ngoài 30 tuổi đang làm ăn phát đạt, có tiền mua căn nhà, sau khi về ở, bỗng dưng làm ăn đi xuống. Nhiều hợp đồng mà chị đã ký kết bỗng dưng bị huỷ bỏ. Linh cảm thấy việc làm ăn của bản thân có liên quan đến ngôi nhà, mời thầy Phong thuỷ đến xem xét. Thầy Phong thuỷ phát hiện cổng chính ngôi nhà đặt không đúng phương vị, nên sự kinh doanh của chị đi xuống. Chị tuổi Mùi, nhưng cổng chính lại ở Thân Sơn; nhà toạ Dần hướng Thân không đẹp, khí khẩu hỗn tạp. Cửa sổ mở ra ở phương Đông và Đông Bắc, niên sát nằm ở Mão Sơn, phối hợp niên vận gọi là điệp sát (sát kép). Do vậy nữ doanh nhân này suy thoái trong làm ăn do phương vị cửa không nạp vượng. Theo lời khuyên của thầy phong thuỷ, trước cửa sổ phương vị chính Đông, đặt một chậu nước nuôi cây cảnh, ở cổng chính phía trong treo một bức rèm kết bằng vỏ ốc hến để hy vọng có thể giảm bớt điều không lợi. Sau không đầy một tháng, nữ doanh nhân làm ăn có khá lên, nhưng thầy Phong thuỷ vẫn khuyên nên đổi nhà.
Về chuyện ấy…
Phong thuỷ học cho rằng, vị trí phòng ngủ trong nhà có liên quan đến quan hệ giới tính của gia chủ; như phạm hay không phạm đào hoa, có hay không lãnh cảm và bất lực giới tính. Khái niệm đào hoa ở đây chỉ ngoài người bạn đời chính thức, còn có quan hệ với người bạn khác giới nữa.
Trong 24 Sơn hướng của phong thuỷ học, nếu chủ nhân có phòng ngủ ở Mão Sơn và Dậu Sơn dễ phạm đào hoa, còn nằm ở vị trí Tý Sơn và Ngọ Sơn là cũng có đào hoa, nhưng không mạnh mẽ. Về vấn đề này, phong thuỷ học còn cho rằng, phải xem xét thêm bản mệnh của gia chủ. Trong môn tử vi, người có mệnh thân ở Mão Dậu thì có đào hoa, nếu phòng ngủ lại nằm ở Mão Sơn, Dậu Sơn thì đào hoa càng mạnh; người tương khắc với Mão Sơn, Dậu Sơn thì mắc chứng lãnh cảm giới tính hoặc bất lực tình dục. Những người này muốn khôi phục lại giới tính trời sinh, hẳn phải bố trí giường ngủ ở Mão Sơn , Dậu Sơn.
Phong thuỷ học cho rằng, người bản mệnh đào hoa, phương vị phòng ngủ lại ở Mão Sơn, Dậu Sơn thì nên đổi vị trí phòng ngủ, nếu không, có người “ nằm ngủ trên giường mà lòng tơ tưởng ”, còn ông chồng thì dễ biến thành “người sâu đo”. Khái niệm “người sâu đo” do dân gian Trung Hoa cổ đại cuối Triều Minh chỉ những quan đại thần giầu có, sinh hoạt xa xỉ, rất nhiều nàng hầu thê thiếp; suốt ngày đêm uống thuốc kích dục để cùng thê thiếp hoan lạc, nhằm quên đi nỗi sắp mất nước về tay nhà Mãn Thanh. Vì dâm dục quá độ, có quan đại thần chết, nhưng có người không chết được, xưng cốt rã rời, người co rúm lại, không duỗi thẳng ra được, giống hình con sâu đo, người dân đương thời gọi họ là “người sâu đo”.
Phong thuỷ học còn cho rằng, trong thế giới đương đại, người bản mệnh đào hoa, giường ngủ ở Mão Sơn hoặc Dậu Sơn, nhà lại ở gần đền miếu, khí âm sát ở đây nạp vào nhà, ông chủ nhà cũng sẽ trở thành “người sâu đo” nếu không đổi Phong thuỷ.
Không nên ở nhà tầng lầu có góc nhọn
Kiến trúc hiện đại có nhiều ngôi nhà có những cụm nhà cao tầng liên kết với nhau, ở mỗi tầng lầu có tới 6 đến 8 đơn vị, trên mặt phẳng mỗi tầng lầu nhìn ra như hình quạt; cầu thang máy và hành lang đều đặt ở giữa lầu có thể toả ra 6 phương 8 hướng. Cách thiết kế này tạo ra từng bộ phận nhô ra một góc, làm cho ánh sáng và không khí vào từng căn hộ đầy đủ. Đứng về góc độ phong thuỷ mà nói, vì các hộ chĩa ra 6 phương tám hướng, nên không đạt được “4 bình 8 ổn”, mà mỗi căn hộ có một phòng với một góc nhọn. Những người sống trong ngôi nhà ấy luôn cảm thấy mơ hồ, trong lòng lúc nào cũng buồn bực, sức khoẻ gỉam dần, gia cảnh sa sút. Xu hướng xấu nặng hay nhẹ, còn tuỳ thuộc vào mệnh của chủ nhân , hướng và phương của ngôi nhà.
Mua nhà cũng nên chọn tầng
Phong thuỷ học cho rằng, khi mua nhà ở chung cư, ngoài việc chọn hình thế ngôi nhà có dấu hiệu cát, còn nên chọn tầng lầu họp với bản mệnh của gia chủ. Nguyên tắc mà phong thuỷ đưa ra là: nếu số tầng lầu ngũ hành sinh chủ mệnh là tốt nhất, nếu khắc chủ mệnh là không tốt. Nếu số tầng lầu ngũ hành bị chủ mệnh khắc cũng tốt vào loại trung bình; ngũ hành chủ mệnh với ngũ hành tầng lầu như nhau thì giúp chủ mệnh nên cát. Ví dụ người sinh năm Hợi, hành Thuỷ, nên ở tầng 1 hoặc 6 (đều thuộc thuỷ); tầng 4 và 9 thuộc kim, kim sinh thuỷ là cát, ở cũng tốt; cũng có thể ở tầng 2 và tầng 7 (đều thuộc hoả), vì thuỷ khắc hoả; không nên ở tầng 5 hoặc 10 ( đều thuộc thổ), vì thổ khắc thuỷ.
Về mối quan hệ tầng lầu với ngũ hành, được người xưa nêu như sau:
Tầng 1 và 6 thuộc thuỷ; tầng 3 và 8 thuộc mộc; tầng 4 và 9 thuộc kim; tầng 5 và 10 thuộc thổ. Tầng 10 thuộc thổ, tầng 11 thuộc thuỷ, tầng 12 thuộc hoả, tầng 13 thuộc mộc, tầng 14 thuộc kim, tầng 15 thuộc thổ, tầng 16 thuộc thuỷ, tầng 17 thuộc hoả, tầng 18 thuộc mộc, tầng 19 thuộc kim, tầng 20 thuộc thổ…
Về tuổi theo ngũ hành như dịch học nêu ra như sau:
Tý hành thuỷ, Sửu hành thổ, Dần hành mộc, Mão hành mộc, Thìn hành thổ, Tỵ hành hoả, Ngọ hành hoả, Mùi hành thổ, Thân hành kim, Dậu hành kim, Tuất hành thổ, Hợi hành thuỷ.
Về mối quan hệ tương sinh, tương khắc như sau:
Tương sinh: Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim. Mối quan hệ tương khắc như sau: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim…
Vị trí nhà vệ sinh trong khuôn viên ngôi nhà
Trong gia tướng học không nói rõ nhà vệ sinh đặt ở phương vị nào thì tốt, chỉ nhắc nhở cần tránh đặt giữa nhà, phía Đông Bắc hoặc phía Tây Nam. Nếu đặt ở phía Bắc thì từ thu phân đến xuân phân không nhìn thấy ắnh mặt trời, khí hậu ẩm lạnh, ảnh hưởng đến sức khoẻ. Phong thuỷ học còn cho rằng, vị trí nhà vệ sinh không đặt nơi trùng với bản mệnh. Ví dụ người sinh năm Tý và Hợi ( đều thuỷ), không đặt nhà vệ sinh phương Bắc, vì Bắc thuỷ; người sinh năm Dậu và Thân ( đều là kim ), không đặt nhà vệ sinh phương Tây, vì Tây kim…
Trên đây là một số trường hợp thường gặp đối với một ngôi nhà, với nơi ở mà phong thuỷ học nêu ra, quan niệm này chỉ có giá trị tham khảo .
Tài liệu dienbatn sưu tầm của tác giả Quảng Tuệ

17 / LƯU Ý HƯỚNG BÀN LÀM VIỆC :
Thông thường chủ một cơ sở làm ăn,buôn bán cần phải đặt bàn làm việc của mình và của các nhân viên dưới quyền theo hướng tốt của cung Mạng người chủ.Ta cũng cần lưu ý rằng :Các cung quan trọng như cung Danh vọng (Phương Nam );cung Sự nghiệp (Chánh Bắc );Cung Phú quí,Tài lộc (Đông Nam );cung Tri thức (Đông Bắc ) cần phải xác định cho chính xác để làm cho các khu vực đó thêm sáng sủa ,sinh động.Khi cần phát triển một vấn đề nào đó ta làm cho cung đó nổi bật lên bằng cách thắp đèn,treo Phong linh hay quả cấu thủy tinh,đặt hồ cá cảnh vào vị trí tương ứng của cung đó.
Bàn làm việc của chủ nhân cần phải có chỗ dựa đằng sau (Sơn ),như là dựa lưng ghế vào tường. Ghế ngồi không được quay ra cửa sổ,cửa ra vào,không được để các góc nhọn như cạnh bàn,tủ,góc tường đâm vào vị trí ngồi.Chỗ ngồi của người Chủ không được có đường đi đâm trực diện vào.Khi làm việc,từ chỗ ngồi của mình,người Chủ phải bao quát được toàn bộ cơ sở của mình và không để người khác nhòm ngó vào chỗ làm việc của mình.
Khi bố trí bàn làm việc,Chỗ ngồi của Chủ nhân phải chiếm được các phương vị tốt và tuyệt đối không để bất cứ ai ngồi vào vị trí đã chọn của mình.Nên bố trí làm sao khách ngồi vào cung Quí nhân là tốt nhất.Có như vậy Chủ nhân mới được giúp đỡ,hậu thuẫn ,nâng đỡ.Nếu có điều kiện nên treo sau lưng chỗ ngồi các bức tranh Long –Hổ.
18/ Thế ngồi trong Phong Thủy của Bạn.
* Bất cứ một cuộc họp nào , bạn nên ngồi ở vị trí góc Đông Nam của căn phòng hay cái bàn để chiếm giữ cung Tài .
** Khi Bạn kinh doanh một thương nghiệp, Bạn có những buổi họp thương mại, hãy cố gắng chọn một chỗ ngồi tốt cho riêng Bạn (nghĩa là những hướng tốt theo phong thủy của Bạn). Nếu có khó khăn khi Bạn không thể chọn chỗ ngồi theo ý ý mình muốn, thì hãy xoay người về hướng tốt đó hay quay mặt về hướng tốt đó khi phát biểu háy nói chuyện.
** Khi Bạn phải đi ra ngoài dự một buổi ăn tối thật quan trọng để tạo một cơ hội tốt, Bạn hãy ngồi đối diện với hướng Diên Niên. Hướng này sẽ làm cho Bạn có cảm giác tốt và may mắn.
** Khi có một cuộc phỏng vấn cho nghề nghiệp hay một buổi họp mặt quan trọng, hãy ngồi day mặt về hướng Sinh khí. Hướng này sẽ gia tăng may mắn và thành công cho Bạn .
Như vậy chỗ ngồi họp của bạn cần lưu ý tới Vị ( tọa độ của chỗ ngồi trong phòng ) và Hướng mặt của mình .
19 / Ảnnh hưởng của đòn dông :
Theo khoa Phong thủy thì cái đòn dông chính thường tạo ra một lực tác động mạnh mẽ đối với những vật thể nằm trên đường thẳng trực chiếu của nó, nơi nào bị trực chiếu thì nơi đó bị ảnh hưởng nặng nề nhất đối với những người ở trong đó, ví dụ chiếu vào phòng ngủ thì người nào ở trong phòng mới bị ảnh hưởng, nếu chiếu vào phòng làm việc thì người ngồi làm việc bị tác hại. Đặc biệt chiếu vào cửa chính ra vào thì cả gia đình đều bị ảnh hưởng chứ không riêng gì chủ gia đình . Riêng về cái đòn dông có rất nhiều cách sửa chửa hoặc là treo một cái bát quái có gương phản chiếu ở chính giửa treo ngay trước cửa nhà. Một cách khác làm một mái hiên che nắng hay là giàn cây leo ngay trước cửa nhà che khuất tầm mắt mình đối với cái đòn dông trên cao của nhà đối diện cũng tránh được ảnh hưởng xấu. 

( Xin xem tiếp bài 4 - dienbatn ).

TỔNG HỢP CÁC BÀI VIẾT 
PHONG THỦY LUẬN
Tác giả: Điện Bà Tây Ninh

1  |  2  |  3  |  4  |  5  |   6  |   7  |  8  |  9  |  10  |  11  |  12  |  13 |  14  |  15  |  16  |  17  |  18  |  19  |  20  |   21  |   22  |  23  |  24  |  25  |  26  |  27  | 28 |  29  |  30  |  31  |  32  |  33  |  34  |  35  |   36  |   37  |  38

PHONG THỦY LUẬN . BÀI 2.

Phong Thủy Luận.

TRẠCH HÌNH
Dung huyệt: 1) Chỉ nền đất của nhà ở, thôn xóm, thành trấn (thành thị, thị trắn), gọi là huyệt trường của dương trạch, điểm dương huyệt" tức là xác định nền đất và phạm vi của một địa chi nào đó. 2) Mộ huyệt có phân ra âm và dương; âm long mà kết huyệt âm thì chủ bị nói xấu, phá hại gia sản; dương long mà kết huyệt dương, chu sự sinh li tử biệt. Phân biệt âm dương thì căn cứ vào vị trí âm hay dương mà xác định.
Chính huyệt: Chỉ trung tâm của thành trấn. Tức Chính trung của Dương huyệt. Đất là nơi xây cất công trình chính, nếu ở kinh đô thì là nội thành cung điện, hoàng cung; nếu ở tỉnh thành thì đó là dinh tỉnh trưởng, ở châu huyện là công đường. Cho nên, xây dựng kinh đô thì trước hết phải xây dựng ở trung tâm (Chính huyệt) tông miếu, cung điện; xây dựng tỉnh thành thì trước tiên xây dựng dinh thự quan nha; xây dựng châu huyện thì trước hết chọn Chính huyệt xây dựng công đường chính trị, thứ đến kho lẫm, nhà lao. Thuật Phong thủy coi đây là bảo đảm thể hiện thể chế tông pháp phong kiến trong kiến trúc thành trấn, cũng là một đặc trưng kiến trúc đô thị của Trung Quốc thời cổ.
Trạch hình: Tức hình dáng của nhà ở, chia ra hai loại trong và ngoài. Hình dáng bên ngoài của nhà ở là chỉ vị trí, hình dạng, địa hình tứ phía cùng cảnh vật kiến trúc của toàn bộ ngôi nhà. Hình dáng bên trong của nhà ở thì chỉ hình dạng,vị trí của mọi vật kiến trúc cùng hình thức phối hợp giữa chúng với nhau. Thuật Phong thủy cho rằng hình dáng bên ngoài của nhà ở liên quan đến khí thế của mạch đến, nếu không tốt, thì dù hình dáng bên trong có hay mấy, cũng sẽ không toàn vẹn. Hình dáng bên ngoài của nhà ở lấy vị trí địa thế của nhà ở làm yếu tố quan trọng nhất, nói chung nhấn mạnh yêu cầu địa thế bằng phẳng, Minh đường rộng rãi, trước sau có thủy bao bọc, thủy khẩu cách nhà không quá xa. Kiến trúc cảnh vật xung quanh cũng rất quan trọng. Tốt nhất là bên trái nhà ở có dòng chảy, bên phải có đường đi, đằng trước có ao, sau lưng có gò cao, gọi là đất “Tứ thần tương ứng". Nhà ở không nên nằm ngay giao lộ, năm cạnh quan nha hầm hố, câu, nhà lao, không nên ở chỗ cây cỏ không thể mọc nổi, không nên có giếng nước ở ngay trước cổng ... Nhà ở tại các quần thể kiến trúc, như thôn trấn, thành phố, thì điều kiện tự nhiên chi phối căn nhà là phụ; chủ yếu phải xem xét mối tương quan hài hòa với cảnh vật kiến trúc xung quanh, đồng thời so sánh Sa, Thuỷ. Ca nói: “Vạn ngõa lân lan thị tỉnh trung, cao liên tầng tích thị lai long” (Dương trạch tập thành; quyển 1), lại nói : “Nhất tầng nhai cù vi nhất tầng thủy, nhất tầng tường ngõa vi nhất tầng sa. Môn tiền nhai đạo tức thị Minh đường, đối diện thất vũ tức vi án sơn”. (mỗi đường phố coi như một dòng nước chảy, mỗi bức tường là một lớp Sa, Đường phố trước cửa tức là Minh đường đối diện phía trước ngôi nhà tức là Án sơn) (Dương trạch hội tâm tập ). Nghĩa là các mái nhà liên tiếp nhau tức là Long, căn cứ vào các đường hẻm để luận khí, còn đường phố là thủy đạo vậy. Qui định về hình dáng nhà ở cũng rất phức tạp, không dưới một trăm điều, chỉ nêu ví dụ vài điều, như hình 198. Hình dáng bên trong của nhà ởchủ yếu là vị trí, dạng thức, độ cao thấp của các vật kiến trúc trong nhà, ví dụ qui định cột phòng chính phải dùng số 9, cột sảnh dùng số 7, cứa dùng số chẵn. Thuật Phong thủy cho rằng mở cửa phía tây là “bạch hổ há mồm" thì không cát. Cối giã gạo không được nằm cùng một hàng với lai long. Bên ngoài cổng không được xây dựng thêm phòng ốc; bên trên cổng không được xây dựng lầu. Trong nhà không nên có phòng ốc hình chữ Đinh, không nên có đường đi xuyên tâm. Phương vị mở cửa, độ cao thấp của phòng ốc chủ yếu căn cứ vào phương vị Cửu tinh rnà xác định. Việc bố trí giếng nước, chuồng gia súc, nhà vệ sinh, nhà bếp cũng vậy. Qui định về hình dáng bên trong nhà ở cũng rất phức tạp, không dưới một trăm điều, chi nêu ví dụ vài điều, như hình 199. Phần lập luận trong Thuật Phong thủy liên quan đến hình dáng nhà ở có một bộ phận là sự tích lũy và đúc kết kinh nghiệm lâu dài, ví dụ nhà ở không nên hẹp theo chiều nam bắc. dài theo chiêu đông tây. không nên bốn phía là đường lớn không năm trên sống núi, chỗ cửa gió...Có một bộ phận mang tính chất mê tín, còn lại thì liên quan đến tập quán truyền thống dân tộc và quan niệm thẩm mỹ.
Tam yếu lục sự : Hình dáng nhà. Tổng kết những nhân tố quan trọng liên quan đến xây dựng nhà ở của Phong thủy dương trạch. Tam yếu gồm : chủ, môn, táo, tức là mệnh của chủ nhà phối họp với ngôi nhà, hướng mở cổng và cửa. vị trí của bếp. Lục sự gồm : môn (cồng cửa), táo (bếp), tỉnh (giếng nước), lộ (lối đi), xí (nhà xí), cối giã gạo, những vị trí nên hoặc kỵ của các nhân tố đó. Tĩnh trạch : Hình dáng bên trong của nhà ở. Chỉ nhà ở chỉ có 1 dãy hay 1 phòng. Vì số dãy, phòng ít, nên phương vị của cửu tinh ngũ hành về cơ bản là cố định, không cần thay đổi vị trí, độ cao thấp của vật bài trí khi cửu tinh thay đổi.
Động trạch : Hình dáng bên trong của nhà ở. Chỉ nhà ở có từ 2 - 5 dãy hoặc phòng. Vì số dãy, số phòng nhiều, nên cửu tinh ngũ hành sẽ biến đổi có qui luật theo dãy phòng và phương vị cổng, phương vị và độ cao thấp của vật bài trí trong nhà cũng thay đổi tùy theo sự biến động của cửu tinh ngũ hành.
Bát trạch : Dựa theo phương vị Toạ, Hướng cùng phương vị mở cửa của nhà ở, chia thành bát quái, cả thảy có 8 loại, gồm : Càn trạch, Ly trạch, Đoài trạch, Khảm trạch, Cấn trạch, Tốn trạch, Khôn trạch, Chấn trạch, Cửu tinh sẽ biến động có qui luật theo sự khác nhau của mỗi loại nhà tại phương vị sở tại, từ đó có thể phán đoán lành dữ, chỉ dẫn xây dựng, sửa chữa. Thuộc tính bát quái của nhà ở là cố định, phương vị của Tọa Hướng và cửa cũng theo đó mà xác định, nhưng do có thể đặt cửa ở hai bên trái phải của bốn quẻ Ngẫu : Càn, Khảm, Tốn, Cấn , nên nhà ở thực ra có tới 12 Toạ hướng và cửa khác nhau, đó là: Tọa nam Hướng bắc cửa Khảm, Tọa bắc Hướng nam cửa Ly, Tọa đông hướng tây cửa Đoài, Tọa tây Hướng đông cửa Chấn, Tọa nam Hướng bắc cửa Càn, Tọa đông Hương tây cửa Càn, Tọa bắc Hướng nam cửa Khôn, Tọa đông Hướng tây cửa Khôn, Tọa nam Hướng bắc cửa Cấn, Tọa tây Phương đông cửa Cấn, Tọa bắc Hướng nam cửa Chấn, Tọa tây Hướng đông cửa Chấn.
Đông tứ trạch : Đem bát trạch phân làm 2 nhóm, Chấn trạch, Tốn trạch, Khảm trạch và Ly trạch là Đông tứ trạch. Đối chiếu xem cung mệnh của chủ nhà ký gửi ở đâu (theo phép tính Tam nguyên), nếu nằm ở bốn cung Chấn, Tốn, Khảm, Ly thì nên sống ở ngôi nhà Đông tứ trạch.
Tây tứ trạch : Đem bát trạch phân làm 2 nhóm, Càn trạch, Khôn trạch, Cấn trạch, Đoài trạch là Tây tứ trạch. Đối chiếu xem cung mệnh của chủ nhà ký gửi ở đâu (theo phép tính Tam nguyên), nếu nằm ở bốn cung Càn, Khôn, Cấn, Đoài thì nên sống ở ngôi nhà Tây tứ trạch.
Khảm trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa nam hướng bắc, mở cửa ở chính hướng bắc Khảm, thích hợp với người thuộc Đông tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Khảm trạch theo chiều thuận lần lượt là Khảm (Phúc đức), Ngũ quỉ (đông bắc )- Thiên ất ( chính đông ), Sinh khí (đông nam), Diên niên (chính nam), Tuyệt mệnh (tây nam), Hoạ hại (chính tây), Lục sát (tây bắc ). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tinh từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí Ngũ quỷ, Thiên ất, Diên niên. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài nhà ở thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; Ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí. ..Xem mục đông tứ trạch.
Ly trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa bắc hướng nam, mở cửa ở chính phương nam Ly, thích hợp với người thuộc Đông tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Ly trạch theo chiều thuận lần lượt là Ly (Phúc đức), lục sát (tây nam), Ngũ quỷ (chính tây), Tuyệt mệnh (tây bắc), Diên niên (chính bắc), Hoạ hại (đông bắc), Sinh khí ( chính đông), Thiên ất (đông nam). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung (Phúc đức) là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí Ngũ quì, Diên niên. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí...
Chấn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa tây hướng đông, mở cửa ở chính hướng đông Chấn, thích hợp với người thuộc Đông tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Chấn trạch theo chiều thuận lần lượt là Chấn (Phúc đức), Diên niên (đông nam), Sinh khí ( chính nam), Hoạ hại (tây nam), Tuyệt mệnh (chính tây), Ngũ quỉ (tây bắc), Thiên ất (chính bắc), Lục sát (đông bắc). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung (Phúc đức) là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất. Bất kể trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phương bị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí giường ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí . .
Tốn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Tốn trạch do toạ hưởng khác nhau mà chia làm hai; một là ngôi nhà tọa tây phương đông, mở cửa ở hướng đông nam Tốn: hai là ngôi nhà toạ bắc hướng nam và mở cửa ở hướng đông nam Tốn; thích hợp với người thuộc Đông tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Tốn trạch theo chiều thuận lần lượt là Tốn (Phúc đức), Thiên Ất ( chính nam), Ngũ quỉ (tây nam), lục sát ( chính tây), Hoạ hại (tây bắc), Sinh khí (chính bắc), Tuyệt mệnh ( đông bắc), Diên niên ( chính bắc ). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Diên niên, Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỹ, Thiên ất, Diên niên. Nhà toạ bắc hướng nam mở cửa hướng Tốn thì sắp xếp Cửu tinh cung giống như nhà toạ tây hướng đông, lần lượt tính từ ngăn thứ nhất là Thiên ất, Diên niên, Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ . Bất kể toạ tây hay toạ bắc, bên trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí...
Càn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch. Càn trạch do toạ hướng khác nhau nên chia làm 2; một là ngôi nhà tọa nam hướng bắc, mở cửa ở hướng Càn tây bắc, và hai là ngôi nhà toạ đông phương tây cũng mở cửa ở hướng Càn tây bắc; thích hợp với người thuộc Tây tứ trạch. Nhà toạ nam hướng bắc thì phương vị sắp xếp Cửu tinh của Càn trạch theo chiều thuận làn lượt là Càn (Phúc đức), Lục sát ( chính bắc), Thiên ất ( đông bắc), Ngũ quỉ ( chính đông), Hoạ hại ( đông nam), Tuyệt mệnh ( chính nam), Diên niên ( tây nam), Sinh khí ( chính tây ). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên. Nhà toạ đông hướng tây mở cửa hướng Càn thì Cửu tinh sắp xếp cũng giống như ngôi nhà toạ nam hướng bắc mở cửa hướng Càn, còn Cửu tinh xuyên cung bên trong là Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài loại nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí. . .
Đoài trạch : Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa đông hướng tây, mở cửa ở hướng chính tây Đoài thích hợp với người thuộc Tây tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của trạch theo chiều thuận lần lượt là Đoài (Phúc đức), Sinh khí (tây bắc), Hoạ hại (chính bắc), Diên niên ( đông bắc), Tuyệt mệnh ( chính đông): Lục sát (đông nam), Ngũ quỷ (chính nam), Thiên ất ( tây nam ). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ bản cung (Phúc đức) là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỹ, Thiên ất, Diên niên. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí .. .
Khôn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch. Khôn trạch do tọa hướng khác nhau nên chia làm hai loại; một là ngôi nhà tọa đông hướng tây, mở cửa hướng Khôn tây nam, và hai là nhà tọa bắc hướng nam, mở cửa ở hướng Khôn tây nam, thích hợp với người thuộc Tây tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của ngôi nhà toạ đóng hướng tây, mở cửa hướng Khôn tây nam theo chiều thuận lần lượt là Khôn (Phúc đức), Thiên ất (chính tây), Diên niên ( tây bắc), Tuyệt mệnh ( chính bắc), Sinh khí ( đông bắc), Hoạ hại ( chính đông), Ngũ quỹ ( đông nam ), Lục sát (chính nam). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Sinh khí, Ngũ quỷ, Thiên ất. Nhà tọa bắc hướng nam mở cửa hướng Khôn tây nam cũng sắp xếp Cửu tinh giống như nhà tọa đóng hướng tây nói trên, còn Cửu tinh xuyên cung bên trong tính từ dãy hoặc ngăn thứ nhất lần lượt là Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỷ Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài hai loại nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng nghỉ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí...
Cấn trạch : Một trong bát trạch . Thuộc Tây tứ trạch. Cấn trạch chia ra hai loại, một là nha toạ tây phương đông mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, hai la ngôi nhà tọa nam hướng bắc, mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, thích hợp với người thuộc Tây tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của ngôi nhà toạ tày hướng đông, mở cửa ở hướng Cấn, Dần sơn, đông bắc, theo chiều thuận lần lượt là Cấn (Phúc đức). Lục sát ( chính đông), Tuyệt mệnh (đông nam), Hoạ hại (chính nam), Sinh khí ( tây nam), Diên niên ( chính tây). Thiên ất (tây bắc), Ngũ quỉ ( chính bắc). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngu quỉ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Nhà tọa nam hướng bắc , mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, thì sắp xếp Cửu tinh cũng giống như nhà tọa tây hướng đông, mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, còn Cửu tinh xuyên cung bên trong tính từ ngăn thứ nhất lần lượt là Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát, Sinh khí.
Bất kể bên trong hoặc bên ngoài thì hai loại nhà này ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước: chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cói giã gạo, nhà xí... Đặc thù của Cấân trạch là ở Cấn là Quỉ môn, mở cửa không tốt; chỉ nên mở cửa ở Dần sơn, Sửu sơn là hai bên phải trái của Cấn son, chứ không thể ở chính Cấn sơn.
Chu địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bốn phía cao, ở giữa thấp, gọi là Chu địa . Còn có tên khác là đất Địa tàng. Quân tử cư trú ở đây tốt, chủ phú quí liên tục. Tiểu nhân mà cư trú ở đất này thì hung. Câu ca nói : “Trung ương chính diện tứ diện cao, tu cái trung trạch phúc hữu dư. Ngưu dương lục súc đa hưng vượng, gia đạo cao quí xuất anh hào". (Dương trạch thập thư).
Hàn địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở rìa phía bắc cao, rìa phía nam thấp, gọi là Hàn địa . Còn có tên là đất Trạch tàng. Cư trú ở đây cực tốt.
Tề địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía đông có lưu thủy thì gọi là Tề địa. Cư trú ở đây tốt.
Ngụy địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía nam có lưu thủy thi gọi là Ngụy địa. Cư trú ở đây tốt.
Cung địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bốn phía cao, ở giữa thấp, lại có vũng nước. Cư trú ở đây tốt.
Lương thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bằng phẳng, không lồi lõm hoặc ở giữa hơi lồi lên một chút thì gọi là Lương thổ. Cư trú ở đây tốt.
Tấn thổ : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở trước thấp sau cao thì gọi là Tấn thổ. Cư trú ở đây tốt.
Lỗ thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía đông thấp, phía tây cao, thì gọi là Lỗ thổ. Con trai cả sống ở đất này thì hưng vượng, phú quí anh hào. Nếu địa thế âm trạch mà phía đông thấp, phía tây cao, thì lại không Tốt.
Tề thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở trước cao sau thấp thì gọi là Tề thổ. Cư trú ở đây không tốt
Vệ thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bốn phía cao, ở giữa thấp thì gọi là Vệ thổ. Cư trú ở đây không tốt
Tú thần tương ứng: Địa hình bên ngoài nhà ở. Phàm phía đông nhà có dòng chảy là Thanh long, phía tây nhà có đường đi là Bạch hổ, phía nam có ao hồ là Chu tước, phía bắc có gò đống là Huyền vũ. Có đủ 4 thủ đó gọi là cách tứ thần tương ứng, là đất đại cát đại quí. Cư trú ở đây cực tốt
Huyền vũ thú: Địa hình bên ngoài nhà ở. Phía sau (phía bắc) nhà ở có gò đống hoặc công trình kiến trúc cao thì gọi là Huyền vũ thủ ( Huyền vũ trấn giữ). Cư trú ở đây đại cát
Chu tước môn : Địa hình bên ngoài nhà ở. Phía trước (phía nam) nhà ở địa thế trải rộng ra gọi là Chu tước môn. Cư trú ở đây đại cát.
Tứ phương vị : Địa hình bên ngoài nha ở. Bốn phía nhà ở bị các con đường bao vây, gọi là đất Tứ phương vị. Cư trú ở đây rất xấu. Câu ca nói : "Tứ diện giao đạo chủ hung tàn, họa khởi nhân gia bất khả đương, nhược bất tôn tài tai họa tử, đầu hà tự vẫn tỉnh trung vong" (đường vây bốn phía chủ hung tàn, tai họa ập đến người ta kho bề chống đỡ, nếu không tốn tiền thì cũng chết người, nhảy xuống sông xuống giếng mà tự vẫn) (Dương trạch thập thư).
Huyết bàn chiếu kinh : Địa hình bên ngoài nhà ở. Phong thủy dương trạch lấy phía trước nhà ở có ao hồ hình vuông là “Huyết bàn chiếu kính". Cư trú ở đây rất xấu. Có thuyết nói rằng phàm phía trước nhà mà có đào ao hồ mới thì đều là Huyết bàn chiếu kính, không tốt. Câu ca nói : “Nhược hữu thử đường đương diện tiền, đại đại lao tật bất thậm ngôn. Nhất đường tiện đoạn nhất nhân táng, hà sủng bất dữ ngoại nhân truyền" (nếu nhà có ao vuông ở ngay phía trước, thì đời nọ tiếp đời kia bị bệnh lao, mỗi ao làm chết một mạng người).
Tây ích trạch : Địa hình bên ngoài nhà ở. Tức là làm thêm phòng ốc vào phía tây ngôi nhà cũ. Phong tục cổ của người Trung Quốc cho rằng Tây ích trạch là không tốt.
Phong tục này có từ thời Xuân thu Chiến quốc, rất thịnh hành vào đời Hán, là một trong điều đại kỵ. Sách Phong tục không giải thích : "Phong tục coi phía tây là cao nhất, làm thêm phòng ốc ở phía đó sẽ hại cho chủ nhà, nên mới có sự cấm ky đó". Có thuyết nói Đông ích trạch (làm thêm phòng ốc vào phía đông nhà cũ) cũng không tốt.
Xung hạng : Địa hình bên ngoài nhà ở. Chỉ cổng hoặc cửa chính của nhà ở bị đường hẻm đâm thẳng vào. Cư trú ở đây không tốt. Phong thủy dương trạch coi đường hẻm là thủy đạo (dòng nước ), Xung hạng chẳng khác gì bị dòng chảy xối, bắn thẳng vào, cho nên phải tránh. Cách né tránh là làm cổng chếch đi hoặc dùng bùa trấn áp.
Chúng để sát : Địa hình bên ngoài nhà ở . Ch ỉ ngôi nhà nằêm trái ngược với hướng của các công trình xây dựng xung quanh. Không tốt. Thuật Phong thuỷ mượn cách này để nhấn mạnh tính nhất trí, hài hòa của cả quần thể kiến trúc.
Địa đài : Địa hình bên ngoài nhà ở. Chỉ khoảng đất trống đằng trước nhà, tức Minh đường. Yêu cầu Địa đài của nhà này không được cao hơn Địa đài của hai nhà bên phải bên trái: nếu hói thấp mọt chút nhưng đừng trũng thì tốt.
Đột khuy : Địa hình bên ngoài nhà ở. Phàm một trong 4 phía nhà có chỗ vết lõm vào hoặc lồi ra thì gọi là Đột khuyết. Cổ nhân mê tín cho rằng nếu phần lõm vào dài không quá 2/3 chiều dài phía đó, thì gọi là Khuyết, hung (xấu); nếu lồi ra không quá 1/3 chiều dài phía đó, thì gọi là Đột, cát (tốt). Song nếu Đột (lồi ra) ở hai hướng đông bắc và tây bắc thì cát biến thành hung. Ngoài ra, đột tuy là cát, Khuyết tuy là hung, nhưng còn phải xem năm sinh của chủ nhà phối với phương vị Cửu tinh, có thể cát biến thành đại cát, hung biến thành đại hung tại phương vị có đột khuyết.
Kiều lương : Địa hình bên ngoài nhà ở. Nói chung Thuật Phong thủy nghiêm cấm làm cầu ở 4 phía nhà ở, vì cho rằng bốn phía có cầu là bị bắn thẳng, ở nhà đó con cháu sẽ khiếp nhược, gia sản lụn bại. Hung. Câu ca nói : “Nhất kiều cao giá trạch sảnh tiền, tả hữu tương đồng hậu diệc nhiên, bất xuất tam niên tịnh ngũ tái, gia tư đãng tận mại điền viên" (Dương trạch thập thư) (trước nhà hai bên nhà mà có một chiếc cầu thì chỉ trong vòng ba năm gia sản sẽ khánh kiệt phải bán cả ruộng vườn). Nếu nhà ở bên cạnh cầu thì phải trấn yểm thường dùng bia đá dựng ngay trước cầu. Một thuyết khác nói rằng nếu quanh nhà có cầu, thì cân phân biệt cầu ở phương nào, phương suy hay phương vượng; phương suy mà có cầu thì hung, phương vượng mà có cầu thì cát. Nếu Chu tước (phía nam) có cầu, không kỵ; nếu Thanh long (phía đông) có cầu, gia đình bình an. Đối với làng xóm, thị trấn, có khi người ta sử dụng cầu ở thủy khẩu để phong toả sinh khí, ngăn chặn gió thổi, là một yếu tố quan trọng của Phong thủy nơi đó. Phong thủy âm trạch thì không coi trọng lắm sự hiện diện hay không của những cây cầu.
Văn bút tháp : Kiến trục hình tháp. Vì hình dáng giống cây bút, lại cĩ quan hệ tới sự đỗ đạt, nên có tên gọi đó. Còn gọi là “Văn phong tháp". Thuật Phong thủy cho rằng, nếu một thành phố hoặc thôn trấn nào đó mà việc văn chương khoa cử yếu kém, thì tại 4 phương vị là Giáp sơn (chính đông thiên bắc), Tốn sơn (đông nam), Bính sơn (chính nam thiên đông), Đinh sơn (chính nam thiên tây ) nên chọn mảnh đất tốt mà xây Văn bút tháp. Bất kể địa thế nơi ấy thế nào, tháp đều phải cao hơn mọi công trình kiến trúc khác, thì sẽ có những người đỗ cao. Có khi người ta đắp đất đá làm hòn giả sơn, cũng được gọi là Văn bút phong, Văn bút sơn.
Ngũ hư ngũ thục : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ 5 trạng thái cát hung của kết cấu bên trong nhà ở. Thuật Phong thủy coi 5 điều sau là "Ngũ hư “: nhà lớn mà ít người cư trú, cổng lớn mà nhà nhỏ, tường rào không trọn vẹn, giếng và bếp bố trí sai phương vị, nhà rất lớn mà ít phòng ốc; 5 điều sau là “ngũ thực" : nhà nhỏ mà đông người, nhà lớn mà cổng cửa nhỏ, tường rào hoàn chỉnh, nhà nhỏ nhưng nhiều gia súc, nước ở phía trước và phía sau nhà chảy về phía đông nam. Ngũ hư làm cho nghèo hèn, còn Ngũ thực làm cho người ta phú quí. Thực ra đó là khuynh hướng xây dựng những ngôi nhà cỡ vừa và nhỏ, đồng thời khuyên người ta chú ý hoàn thiện kết cấu không gian bên trong nhà ở. 
Xuyên cung cửu tinh : Địa hình bên trong nhà ở. Phương pháp xác định tình trạng cát hung của các ngăn hoặc dãy phòng, để chỉ đạo việc tu sửa và xây dựng nhà ở. Tuy mang tên Cửu tinh (9 sao), nhưng thực ra chỉ sử dụng 5 sao là Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên, tương ứng với ngũ hành hỏa, thổ, kim, thủy, mộc, sắp xếp theo trật tự thuận cố định, không thay đổi, trong đó Lục sát, Ngũ quỉ là hung tinh, dãy hoặc ngăn phòng ốc nào có hai sao đó thì nên làm nhỏ, thấp, con ba sao Sinh khí, Thiên ất, Diên niên là cát tinh, phòng ốc nào có 3 sao ấy thì nên làm cao rộng. Phương pháp sắp xếp cụ thể phải kết hợpvới phương vị Bát trạch cửu tinh. Trước tiên, xem cửa chính của ngôi nhà mở về hướng nào, là sao nào, lấy sao ấy làm đại diện cho ngăn (hoặc dãy phòng) thứ nhất, sau đó lần lượt 4 sao kia theo trật tự cố định, thì có thể biết ngăn nào là sao gì. Ví dụ, ngôi nhà toạ đông hướng tây, mở cửa về hướng Khôn tây nam, chính giữa phương mở của, tức phương chính tây, là sao Thiên ất; vậy Thiên ất là ngăn (hoặc dãy phòng) thứ nhất nên làm cao, rộng. Trong trật tự cố định, Thiên ất ở vị trí thứ tư tiếp sau nó là sao Diên niên. Vậy Diên niên là người thứ hai, phòng này cũng nên cao rộng. Tiếp sau Diên niên sẽ trở lại từ đầu, là sao lục sát, ngăn thứ ba, với sao này, phòng nên thấp nhỏ. Ngăn thứ tư là sao Sinh khí, phòng này nên cao to. Ngăn thứ năm là Ngũ quỉ, nên thấp nhỏ. Ngăn thứ sau lại là Thiên ất nên làm cao to. Ví dụ khác, ngôi nhà tọa tây hướng đông, mở cửa hàng Cấn. Chính giữa phương mở cửa tức đông bắc là sao Lục sát, thì lấy Lục sát làm ngăn thứ nhất, tiếp đến Sinh khí, Ngũ quỹ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát.
Nếu ngôi nhà mở cửa ở phương vị Tứ chính, thì ngăn thứ nhất là Hán cung Phúc đức phòng ốc nên làm cao to hoặc vừa phải. Ngăn thứ hai là Lục sát, tiếp đến Sinh khí, Ngũ quỷ, Thiên ất, Diên niên. Ví dụ, ngôi nhà toạ nam hướng bắc, mở cửa tại phương Khảm chính bắc, thì Khảm là Bản cung Phúc đức, lấy đó làm ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, là dãy thứ hai, Sinh khí là dãy thứ ba; Ngũ quỷ là dãy thứ tư; Thiên ất là dãy thứ năm, Diên niên là dãy thứ sáu. Bất kể nhà nào, nếu cửa của dãy thứ nhất mở ra phía ngoài, thì từ dãy thứ hai tính là Lục sát, mà không tính đến Cửu tinh theo phương vị tứ chính nữa. Xuyên cung Cửu tinh gặp sao Sinh khí (Tham lang, Mộc) cư ở Trung cung, còn gọi là Cát tinh đương hung, phòng ốc không nên cao to, là một trường hợp ngoại lệ. Phương vị sắp xếp Bát trạch cửu tinh hữu quan, xin xem thêm các mục Bát trạch.
Tài lộ phân phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Phương pháp xác định cát hung của từng ngăn (hoặc dãy) phòng ốc trong một toà nhà. Căn cứ Đại du niên biến hào pháp và tam nguyên pháp có thể tính toán cung Phúc đức của chủ nhà nằm ở đâu và từng người nên ở loại nhà nào; nhưng trong cùng một toà nhà, cỏ rất nhiều nhân khẩu, già trẻ, trai gái, mệnh rất khác nhau. Cho nên Phong thủy dương trạch lại có phép Tài lộ phân phòng để giải quyết tình trạng đó. Phép này tính Cửu tinh cho từng ngăn (hoặc dãy) phòng ốc , theo toạ hướng và phương mở cửa của chúng. Trình tự sắp xếp Cửu tinh có thể biết nhờ phép Đại du niên biến hào pháp. Ví dụ, nhà toạ nam hướng bắc, cửa Khảm, chủ nhà là người thuộc Đông tứ trạch. Trong nhà đó ngăn thứ nhất mở cửa Khảm, thích hợp cho người thuộc Đông tứ trạch cư trú. Ngăn thứ hai được ngăn cách bằng tường vách, mở cửa Đoài (chính tây) , ắt thành nhà toạ đông hướng tây, cửa Đoài, là Tây tứ trạch, thích hợp cho người nào mạng thuộc Tây tứ trạch cư trú. Trình tự sắp xếp Cửu tinh của ngăn này giống như ở ngôi nhà toạ đông hướng tây mở cửa Đoài, ở phương vị cát tinh nên làm phòng ốc cao to, còn ở phương vị hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, người chủ nên ở phương vị cát tinh. Lại còn phải chú ý kết hợp phương vị cát hung tinh từng ngăn (hoặc dãy) trong nhà với toàn bộ toà nhà; nếu phương vị cát tinh của một ngăn trùng với cát tinh của cả tòa nhà, thì đương nhiên là đã tốt càng thêm tốt; ngược lại, nếu hung tinh của ngăn ấy cũng là hung tinh của cả toà nhà, thì đã xấu càng thêm xấu; nếu cát tinh lẫn lộn với hung tinh, thì nên làm phòng thấp nhỏ hoặc vừa phải, tùy tình hình cụ thể mà xác định. Trong một nhà, vợ chồng không nên ở hai dãy khác nhau, nếu cung Phúc đức khác nhau, thì lấy của chồng làm chính. Thuyết tài lộ phân phòng nhằm chứng minh một đại gia đình có thể đoàn tụ ở một nơi.
Khai môn : Địa hình bên trong nhà ở. Xác định phương vị, ngày giờ tu sửa hoặc làm và kích thước của cổng và cửa các phòng của ngôi nhà là một nội dung quan trọng của phong thủy dương trạch. Thuật Phong thủy cho rằng người sống trong nhà bị cách biệt với sinh khí, phải dựa hoàn toàn vào sự thông thoáng khí, nên Khai môn rất quan trọng. Câu Ca nói: “Ninh dữ nhân gia tạo thập phần, bất dữ nhân gia tu nhất môn" (Thà làm cho người ta mười cái mộ còn dễ hơn sửa một cái cửa) (Dương trạch thập thư). Trình tự Khai môn cụ thể như sau : trước hết, xác định phương vị Bát trạch. Thường lấy phương vị cung Phúc đức của chủ nhà hoặc phương cát tinh làm phương vị Khai môn, nếu nhầm lẫn thì rất xấu. Trước cổng không nên có Sa, Thuỷ xối thẳng vào, không nên là đường gập ghềnh nguy hiểm, không nên có cây khô, đền miếu, không nên đối diện hoàn toàn với cổng nhà khác, không nên bị đường hẻm đâm thẳng tới. Trên cổng không được xây lầu, chủ bất lợi cho chủ nhà. Cổng lớn và cửa từng dãy, từng ngăn trong nhà không được nằm trên một đường thẳng, để sinh khí khỏi bị tiết thóat đi mất. Thứ nữa, tu tạo cổng cửa phải chọn ngày lành tháng tốt, mùa xuân không được Khai môn ở Phía đông, mùa hạ ở phía nam, mùa thu ở phía tây, mùa đông ở phía bắc. Làm cổng, cửa kỵ các sao như Cửu lương, Đại hao, Tiểu hao, Khưu công sát, cộng cả thảy hơn 10 điều cấm kỵ. Lại có Môn quang pháp tính toán ngày lành hợp thì tốt, không hợp mà làm thì xấu. Thứ ba kích thước của cổng, cửa phải theo qui định, không được tùy tiện. Nội dung luận thuật của Phong thủy dương trạch về Khai môn có phần phù hợp yêu cầu bảo đảm ánh sáng và sự thoáng khí, là có giá trị. Còn qui định kích thước tỉ mỉ là mang tính chất mê tín.
Khí khẩu : Địa hình trên trong nhà ở. Chỉ cổng hoặc cửa chính. Thuật Phong thuỷ cho rằng ngôi nhà tiếp nhận khí ở cổng, cửa, giống như người hít thở bằng miệng, nên gọi là khí khẩu. Yêu cầu kiến tạo ở phương vị cát tinh để đón khí tránh hung.
Phúc đức môn : Địa hình bên trong nhà ở. Thuật Phong thủy qui định rằng phàm là chùa chiền (của Phật giáo) tọa ở 7 phương vị là Khảm (chính bắc), Cấn (đông bắc), Chấn (chính đông), Tốn (đông nam), Ly (chính nam), Khôn ( tây nam), Đoài ( chính tây), đều có thể mở cổng cửa ở chính giữa. Duy tọa ở phương vị Càn (tây bắc) thì không được Khai môn ở Thìn, Tốn, Ty sơn, tức ở chính hướng đông nam đối diện; mà phải thiên sang ất sơn, như thế gọi là Phúc đức môn, đại cát.
Thanh long môn : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ ngôi nhà tọa bắc hương nam mở cổng hoặc cửa ở phương vị đông nam (vị trí Tốn), gọi là Thanh long môn, cực tốt. Theo thuyết Bát trạch, toạ bắc hướng nam có 3 loại nhà, một toạ bắc hướng nam Ly môn, hai, toạ bắc hướng nam Tốn môn, ba, toạ bắc hướng nam Khôn môn. Hai loại đầu thi vị trí Tốn chính là cát tinh Thiên ất, Phúc đức; còn loại thủ ba vị trí Tốn là sao Ngũ quỉ, rất xấu.
Nội lộ : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ lối đi trong nhà. Trong nhà có một cưa thì chỉ có một lối đi. Yêu cầu lối đi trong nhà không được xuyên thăng từ cổng vào đến cuối cùng.
Ngoại lộ : Địa hình bên ngoài nhà ở. Chỉ các con đường bên ngoài không nên đâm thẳng vào cổng không nên vây quanh tứ phía hoặc kèm hai bên.
Hỏa yên : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ bếp núc. Thuật Phong thủy cho rằng khói lửa là vật không lành, cho nên nhà bếp nên bố trí ở phương vị có hung tinh trong nhà để hun khói hung thần sát khí. Nếu đặt ở phương vị cát tinh, thì sẽ làm ô uế thần phúc sinh khí, cực hung. Câu ca nói : "Càn Bính Cấn ất vị hỏa yên, Khôn Đoài Quý thượng thị căn nguyên, Chấn Tốn hỏa yên Canh thượng thị, Khảm Ly Giáp thượng bất hư truyền" (Dương trạch thập thư ), nghĩa là đối với Càn trạch thì bố trí bếp ở Bính sơn, Cấn trạch thì bếp ở ất sơn; Khôn trạch và Đoài trạch thì bếp ở Qúy sơn; Chấn trạch và Tốn trạch thì bếp ở Canh sơn; Khảm trạch và Ly trạch thì bếp ở Giáp sơn, đều là phương vị hung tinh sở tại, trừ hai trạch Khảm, Ly là ở phương vị cát tinh. Có thuyết nói Hoả yên là hương hỏa từ đường, hướng coi đó là Phục vị Phúc đức, đều là dị thuyết về Phong thủy dương trạch, không đáng tin.
Hóa lộ : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ bếp núc, tức Hỏa yên. Câu ca nói : “Càn trạch toạ Bính Chấn toạ Canh, Đoài trạch Qúy vị Tốn trạch Tân. Khảm trạch toạ Giáp Ly tu Ất, Cấn trạch tọa ất Khôn trạch Nhâm" ( Dương trạch thập thư) nghĩa là đối với Càn trạch thì bố trí bếp ở Bính sơn. Chấn trạch thì bếp ở Canh sơn; Đoài trạch thì bếp ở Quý sơn, Tốn trạch thì bếp ở Tân sơn, Khảm trạch thì bếp ở Giáp sơn; Ly trạch thì bếp ở Ất Sơn. Cấn trạch thì bếp ở Ất sơn. Khôn trạch thì bếp ở Nhâm sơn, đều là phương vị hung tinh sở tại, trừ hai trạch Khảm, Ly là ở phương vị cát tinh. Thuyết này câu ca hơi khác so với Hỏa yên.
Phóng thủy : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ việc xả nước của nhà ở. Phong thủy dương trạch rất coi trọng Phóng thủy. Lôi xả nước có qui định hết sức nghiêm ngặt, theo nguyên tắc chung là dương sơn thì xả dương, âm sơn thì xả âm. Nghĩa là nước của phương vị dương sơn phải chảy ra từ dương sơn, mà nước của phương vị âm sơn thì phải chảy ra từ âm sơn. Trong 24 sơn, thì Càn, giáp, khôn, ất, tý, qúy, thân, thìn, nhâm, dần, ngọ, tuất là dương sơn, còn Cấn, bính, tốn, tân, dậu, đinh, tỵ, sửu, canh, hợi, mão, mùi là âm sơn. Cưả xả nước lại chỉ được ở phương vị Thiên can, cái gọi là “Phóng thủy chỉ tòng thiên thượng khứ" (Dương trạch thập thư ). Từ dương sơn chảy ra dương thủy, chủ phú quí tột bậc. Từ âm sơn chảy ra âm thủy, chủ có nhiều con cháu. Nêu lẫn lộn âm dương, tai họa sẽ dồn dập. Phóng thủy còn phải liên quan tới phương vị Cửu tinh. Phương vị Tham lang, Văn Khúc, Vũ khúc, thủy chảy đến thì đại cát, thủy chảy đi thì hung. Phương vị Cự môn, Phụ bật, thủy đến và đi đều cát. Phương vị Lộc tồn, Liêm trinh, Phá quân, thủy nên chảy đi, không nên chảy đến. Thủy chảy đến hoặc chảy đi trên phương vị Cửu tinh sẽ có ảnh hưởng không giống nhau tới chủ nhà. Ví dụ thủy Tham lang chảy đến thì chủ con trưởng hưng vượng, thủy Cự môn chảy tới, thì con thứ phát triển; thủy Lộc tồn chảy đến, chủ trong nhà sẽ có quả phụ; thủy Văn khúc chảy đến, chủ con thứ bị suy kém. Phóng thủy ngoài việc phải theo qui định về phương vị chảy đến và chảy đi, còn có những điều nên hoặc không nên, chẳng hạn kỵ chảy thẳng, xuyên ngang, phân nhánh hình chữ Bát; kỵ chảy ngầm bên dưới phòng ốc, tối kỵ chảy xuyên qua cổng. Nên chảy vòng, men bên cạnh. Tốt nhất là uốn lượn ngoằn ngoèo mà chảy đi. Phóng thủy (xả nước, thoát nước) là yếu tố tất nhiên phải suy tính khi xây dựng nhà ở. Thuật Phong thủy đề ra hàng loạt yêu cầu hoàn chỉnh về mặt này, có nhiều điều đáng tiếp nhận, chẳng hạn cống thoát nước không nên chảy xuyên qua sân, không nên chảy qua dưới lòng nhà, không để trong nhà qua mức ẩm thấp, nhưng về mặt phương vị cát hung thì mang màu sắc mê tín.
Thủy phá Thiên tâm: Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ cống thoát nước trong nhà chảy xuyên thẳng hoặc tràn ngang qua nhà, hung. Nếu xuyên thẳng qua nhà còn gọi là “Bão thương sát".
Bão thương sát : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ cống thoát nước trong nhà chảy xuyên thẳng qua giữa nhà; còn gọi là “Thủy phá Thiên tâm", hung. Xả nước xéo qua nhà cũng gọi là Bão thương sát. Hung.
Khốn tự : Địa hình bên trong nhà ở. Phàm làm nhà mà xây tường rào vày xung quanh trước, sau đó mới xây phòng ốc, gọi là “khốn tự", vì giống hình chữ "Khốn". Chủ nhà này sẽ không thể phát đạt, hưng vượng nổi.
Đình táng : Địa hình bên trong nhà ở. Nhà đã làm xong, lại làm thêm một phòng ốc nhỏ ở phía sau, gọi là Đình táng, không tốt. Ai sống trong căn phòng làm thêm ấ thì đại hung.
Long đốn trạch : Địa hình bên trong nhà ở. Sau phòng ở làm nhà kho, gọi là Long đốn trạch. Vì phía sau nhà là Lai long, nên có tên như vậy.
Xuyên tâm sát : Địa hình bên trong nhà ở. Phàm lối đi bên trong hoặc đường đi bên ngoài đâm thẳng vào cổng nhà thì gọi là Xuyên tâm sát.
Qui đầu : Địa hình bên trong nhà ở. Phàm nhà tọa bắc hướng nam mà làm thêm phòng ốc ở phía trước, gọi là Qui đầu, vì giống con rùa thò đầu ra. Được giải thích là nhà đó sẽ bị hao tài tốn của.
Thanh long đầu : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ nhà ở có phòng ốc phía bắc, phía đông, mà không có phòng phía tây, gọi là Thanh long đầu; ngược lại thì gọi là Bạch hổ đầu. Bạch hổ đầu Câu ca nói : “Thử ốc danh vi Thanh long đầu, tất chủ trưởng phòng y thực sầu. Tại gia cô quả chủ trưởng bại, xuất khứ bất hồi không ỷ lâu” (nhà kiểu Thanh long đầu thì con trưởng suy bại, nghèo khổ). "Thử ốc danh vi Bạch hổ đầu, tất chủ tiểu phòng y thực sầu. Ấu nam cô quả tất tổn bại, tiện kiến nguyên nhân tại lí đầu” (nhà kiểu Bạch hổ đầu thì con thứ suy bại, nghèo khổ) ( Dương trạch thập thư ).
Thanh long phệ đầu tháp vĩ : Địa hình bên trong nhà ở. Căn phòng phía đông mà đầu nam nối với một phòng nhỏ, gọi là ."Thanh long phệ đầu”, đầu bắc nối với một phòng nhỏ, gọi là "Thanh long tháp vĩ". Câu ca nói: "Thanh long tháp vĩ cộng phệ đầu, nhất niên lục độ trưởng tử sầu, tiền tài phá tán nhân tật bệnh, thời thời ương quái chí môn đầu” (ở nhà kiểu Thanh long co đầu rụt đuôi thì con trưởng trong một năm sáu lần gặp chuyện buồn, như hao tài tốn của, bệnh tật, tai ương dồn dập) (Dương trạch thập thu ). Ngoài ra, nếu trong nhà mà phòng phía bắc, phòng phía tây, phòng phía nam nối với một phòng nhỏ, thì gọi là Huyền vũ phệ đầu tháp vĩ, Bạch hồ phệ đầu tháp vĩ, Chu tước phệ đầu tháp vĩ, đều là những kiểu không lành, cần giỡ bỏ hoặc trấn yểm.
Đằng xà cử đầu : Địa hình bên trong nhà ở. Tại gốc đông bắc của nhà ở xây thêm một phòng nhỏ, gọi là Đằng xà cử đầu. Câu ca nói : " Đằng xà cử kỳ đầu, cư gia đa hữu ưu, lục súc gia tài tan, tật bệnh sự bất hưu” (Ở nhà kiểu Đằng xà ngóc đầu thì gặp nhiều chuyện lo buồn như hao tài tốn của, bệnh tật liên miên, gia súc chết) (Dương trạch thập thư).
Tả hữu tích xạ : Địa hình bên trong nhà ở. Góc nhọn của nóc phòng chính chĩa thẳng sang phòng phía đông và phòng phía tây ở hai bên phải trái thì gọi là Tả hữu tích xạ. Câu ca nói : “Oác tích xạ tả phòng, trưởng tử mệnh tiêu vong. Oác tích xạ hữu phòng, ấu tử chủ li hương, nhược hoàn tề lai xạ, xạ đắc lãng đãng quang" (Phòng phía đông chủ con trưởng, phòng phía tây chủ con út. Góc nhọn nóc nhà chĩa sang phòng bên trái thì con trưởng chết trước, chĩa sang phòng bên phải thì con út phải rời bỏ quê hương) (Dương trạch thập thư)
Trùng âm phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Phàm nhà chỉ có phòng phía nam hoặc phòng phía tây mà không có phòng phía bắc, phía đông, thì gọi là Trùng âm phòng. Câu ca nói : " âm thịnh dương suy tối bất cường, nữ nhân hưng vượng nhi bất trưởng. Đạo tặc quan sự đô vô số, tuyệt liễu hậu đại thiểu nhi lang" (Âm thịnh dương suy thì nữ mạnh, nam yếu, ở nhà này sẽ gặp kiện tụng, trộm cướp và không có con trai nối dõi) (Dương trạch thập thư)
Cô dương phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Nhà chỉ có phòng phía bắc gọi là Cô dương phòng. Câu ca nói : “Chỉ hữu nhất bắc phòng, nam vượng nữ tao ương, tiền tài chủ phá tán, niên niên hữu bất tường" ( Nhà chỉ có phòng phía bắc, thì nam vượng, nữ gặp tai ương, hao tài tốn của, năm nào cũng có tai họa) (Dương trạch thập thư).
Giang thi phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Bất kể phòng nào, phàm ở giữa cao lớn mà hai bên phòng xép thấp nhỏ, thì gọi là Giang thi phòng ( Phòng gánh xác chết). Câu ca nói : “Xung thiên lạc địa lưỡng đầu đê, tam niên lưỡng độ tổn nam nữ. Hựu chủ giang thi tịnh ngoại tử, thái tuế đương môn vô cải di" ( Nhà kiểu Gánh xác chết thì ba năm gặp hai cái tang, một nam một nữ) (Dương trạch thập thư)
Đơn nhĩ phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Ơû đầu phía đông của căn phòng phía bắc làm thêm một phòng xép thì gọi là Đơn nhĩ phòng. Câu ca nói : “Đường ốc đông đầu tiếp tiểu phòng, trạch trung tiểu khẩu tu tao ương, tam niên lưỡng độ ứng nan miễn, nhân khẩu lục súc hữu tổn thương" ( Nhà kiểu Đơn nhĩ phòng thì dễ bị tai họa, ba năm hai lần bị tổn hại về người và gia súc) (Dương trạch thập thư).
Song nhĩ phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Ở cả hai đầu của căn phòng phía bắc đều làm thêm phòng xép, thì gọi là Song nhĩ phòng. Câu ca nói : "Bắc phòng lưỡng đầu đô hữu phòng, trạch trung lão thiếu thường bệnh ương, ám phong huyết khí tịnh hoàng thũng, hạch thấu sinh phong chủ ôn hoàng" (Ở nhà kiểu Song nhi phòng thì già trẻ đều dễ bị các loại bệnh như ho lao, phù thũng...) (Dương trạch thập thư).
Tiểu tự phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Đằng trước nhà lại xây một phòng chính chắn ngang, gọi là Tiểu tự phòng. Câu ca nói : " Mạc cái Tiểu tự phòng, dương nhân hữu tai ương. Nhân khẩu đa hữu bệnh, nhất niên lưỡng độ vong" (chớ nên làm nhà kiểu chữ Tiểu mà nam giới bị bệnh, một năm có hai người chết) (Dương trạch thập thư).
Thủy tự phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Ở hai bên phòng chính lại có phòng, gọi là Thúy tự phòng. Câu ca nói : “Mạc cái Thủy tự phòng, âm nhân hữu tai thương, đa phục cổ độc tử, nhất niên lưỡng độ vong ( chớ nên làm nhà kiểu chữ Thủy mà nữ giơi bị bệnh cổ trướng, một năm có hai người chết ) ( Dương trạch thập thư).
Vương tụ phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Từ phòng chính nhô ra hai bên đông tây hai phòng như hình chữ Vương, gọi là Vương tự phòng. Câu ca nói : "Mạc cái Vương tự phòng, gia trương tất tai ương, thũng khí tịnh cước tật, âm nhân tất tổn thương” ( chớ nên làm nhà kiểu chữ Vương mà gia trưởng bị tai ương, bệnh phù thũng, phù chân, nữ giới bị tổn thương) ( Dương trạch thập thư).
Lộ cốt phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Khi làm nhà để lộ ra các đầu keo bằng gỗ ở mái hiên, gọi là Lộ cốt phòng. Câu ca nói : “Nhưọc cái Lộ cột phòng, lão gia bệnh trước sàng, sổ niên tần tần khổ, bất miễn mại điền trang" (chớ nên làm nhà kiểu lộ xương mà người già sẽ ốm liệt giường mấy năm, phải bán sạch ruộng vườn ) (Dương trạch thập thư).
Trạch thần : Thần cai quản nhà ở. Có thuyết lấy thần thổ địa làm Trạch thần, có thuyết lấy ông Táo làm Trạch thần.
Chủng thụ thuyết : Qui định của Thuật Phong thủy về việc trồng cây. Nhin chung có thể chia ra hai loại, khung cảnh lớn và khung cảnh nhỏ. Trong khung cảnh lớn, để bảo vệ cây cối là chính, Thuật Phong thủy cho rằng cây co là da và lông của Long, mà lai long là mạch máu sở tại của nhà ở và mộ phần, chặt cây ắt Long bị tổn thương. Hơn nữa, cây mọc ở phương vị tốt, chặt cây tức là trừ bỏ điều lành ; cây mọc ở phương vị hung, chặt cây tức là kích động sự hung hãn. Do đó nghiêm cấm chặt cây. Có khi chủ trương trồng cây một cách có chủ đích, ví dụ nếu hậu sơn Lai long và Sa hai bên tả hữu thưa thớt cây cỏ, thì có thể dùng sức người trồng cây cho khói thưa thớt. Bờ thủy khẩu và trên núi cũng có thể trồng cây để bảo đảm tính kín đáo của thủy khẩu.
Trong khung cảnh nhỏ, chủ yếu trong phạm vi nhà ở, thì có nhiều thuyết phức tạp, trồng cây ở vị trí nào phải theo qui định rất nghiêm ngặt. Chẳng hạn, ở phía đông trồng cây hạnh, chủ nhà sẽ say mê tửu sắc, toàn gia ly tán, hung. Tại phía bắc có cây mận, phía tây có cây đào, thì người nhà ấy dâm tà, hung. Bốn phía quanh nhà đều có hoa hồng, thì chủ nhà nát rượu, hung. Còn trồng đào, liễu ở phía đông, cây du, cây quất ở phía tây, cây mai cây táo ở phía nam, cây hạnh cây thị ở phía bắc, thì cát. Trước cửa giữa trồng hoè, ba đời phú quí; sau nhà có cây du, ma quỉ chẳng dám bén mảng. Tùng, trúc cũng là những thứ cây lành. Câu ca nói : “Thanh tùng úc úc trúc y y, khí sắc quang dung hảo trú cơ" ( tùng xanh trúc vàng từng khóm làm đẹp cảnh sắc nhà cửa) ( Dương trạch thập thư). Nếu địa hình làm nhà trái qui tắc, dẫn tới hung họa, cũng có thể trồng cây để biến hung thành cát. Thuật Phong thủy rất coi trọng cây cối ở trước cổng. Qui định rằng trước cổng không được cò cây lớn, không được có một cây độc nhất, không được có cây rỗng ruột, không được có cây cành sứt sẹo, không được trồng bụi mây song ... Thuyết trồng cây trong Thuật Phong thủy tuy có yếu tố mê tín, song cũng có tính khoa học của nó.
Biện thổ pháp : Phương pháp mà Thuật Phong thủy sử dụng để phân biệt chất đất tốt xấu. Cách làm cụ thể như sau. Tại nền đất định làm nhà, ta đào một cái hố vuông, mỗi chiều 1 thước 2 tấc, độ sâu cũng vậy. Đất đào lên đem đập vụn, sàng qua, rồi đổ xuống hố, lấp đầy thì thôi, không được nén. Sáng sớm hôm sau ra đó quan sát, nếu thấy đất trong hố lồi lên, chứng tỏ sinh khí dồi dào, làm nhà rất tốt; nếu thấy hố lõm xuống, chứng tỏ sinh khí suy kiệt, làm nhà ắt là hung. Biện thổ pháp giống như Xứng thổ pháp, là phương pháp khảo sát xác định chất đất thời cổ cua Trung Quốc.
Xứng thổ pháp : Phương pháp mà Thuật Phong thủy sử dụng để phân biệt chất đất tốt xấu. Cách làm cụ thể như sau. Tại nền đất định làm nhà, ta lấy một cục đất vuông, mỗi chiều 1 tấc. Đem cân lên, nếu nặng 9 lạng là đất tốt, nặng 5 - 7 lạng là đất tốt vừa, nên làm nhà; còn chỉ nặng 4 lạng trở xuống là đất dữ, không nên làm nhà. Hoặc đào đất, đập nát, dùng đấu mà đong rồi cân. Nếu mỗi đấu cân nặng 10 cân là rất tốt, nặng 8 - 9 cân là tốt vừa, nặng 7 cân cũng tốt. Phương pháp này là sự tổng kết kinh nghiệm lâu đời mà có, xác định độ bền của nền đất xây dựng khá chính xác.
Thổ sắc : Phương pháp mà Thuật Phong thủy sử dụng để phân biệt chất đất tốt xấu. Người ta quan sát màu sắc của đất nơi đào mộ hoặc làm nhà, chia ra 5 loại màu : đỏ, vàng, trắng, xanh, đen. Ba màu đỏ, vàng, trắng là tốt nhất, màu xanh kém hơn, xấu nhất là màu đen.
Tục khí : Tức là tiếp tục sinh khí. Thuật Phong thủy cho rằng nhà ở sau một thời gian sẽ hết sinh khí, cần được tiếp tục bồi bổ sinh khí. Cũng có phân biệt Bát trạch mà qui định thời hạn khác nhau. Ví dụ, Càn trạch sau 40 năm hết sinh khí , Khôn trạch sau 50 năm... Khi đó phải Tục khí (hoặc Hoán khí, nghĩa là dùng gạch mới, đất mới tu tạo nhà ở).
CHỌN LỰA VÀ TRẤN YỂM
Mệnh chủ : Chủ nhân của ngôi nhà. Cổ nhân cho rằng nam sinh của mỗi người khác nhau, nên cung mệnh sở thuộc cũng khác nhau. Phong thủy dương trạch yêu cầu căn cứ cung mệnh của chủ nhà mà tính toán thuộc tính của ngôi nhà để xác định phương vị lành dữ và ngày khởi công, nên gọi là Mệnh chủ. Mệnh chủ có phân biệt nam nữ.
Đông tứ mệnh : Thuật Phong thuỷ cho rằng, phàm cung Phúc đức của ai ký gửi ở 4 quẻ Chấn, Tốn, Khảm, Ly, thì là người sinh Đông tứ vị, thuộc Đông tứ mệnh. Theo lý luận Phong thủy dương trạch, người sinh Đông tứ mệnh chỉ có thể ở tại Đông tứ trạch, ví dụ đối với người Khảm mệnh trong Đông tứ trạch, Phúc đức tại Kham, thì nhà toạ bắc hướng nam là cực tốt, nhà toạ nam hướng bắc là rất tốt, nhà toạ tây hướng đông cũng tốt, còn toạ đông hướng tây thì hung. Cũng có thể áp dụng phương pháp Tài lộ phân phòng. Phòng ngủ ở phòng phía nam dãy đông là cực tốt, ở phòng phía đông dãy nam là rất tốt, ở phòng phía bắc dãy giữa cũng tốt. Cổng nếu mở ở phương đông nam Tốn sơn, tỵ sơn, thìn sơn, là cực tốt; tại phương chính bắc Khảm sơn sẽ là cổng Phúc đức, rất tốt; tại phương chính nam Ly sơn cũng tốt. Giếng nước nếu ở phương vị đông nam thìn sơn, ty sơn thì đại cát. Bếp nên đặt ở phương đông bắc, Giáp sơn, Dần sơn. Cối giã gạo nên đặt ở phương đông bắc, Giáp sơn, Dần sơn và phương chính tây Đoài sơn. Chuồng gia súc nếu bố trí ở phương đông nam thì đại cát. Phong thủy (thoát nước) nên bố trí tại Giáp sơn, ất sơn. Mệnh Chấn, mệnh Ly, mệnh Tốn qui định còn phức tạp hơn. Thực ra đều có qui luật phải theo, đó là căn cứ trật tự sắp xếp Bát quái cửu tinh, ở phương vị cát tinh thì bố trí tọa hướng, mở cổng của, làm phòng ngủ, giếng nước, chuông gia súc, còn ở phương vị hung tinh thì bố trí bếp núc, nhà xí, cối giã gạo.
Tây tứ mệnh : Thuật Phong thủy cho rằng, phạm cung Phúc đức của ai ký gửi ở 4 quẻ Càn, Khôn, Cấn, Đoài, thì là người sinh Tây tứ vị, thuộc Tây tứ mệnh. Theo lý luận Phong thuỷ dương trạch , người sinh thuộc Tây tứ mệnh chỉ có thể ở tại Tây tứ trạch, ví dụ Càn mệnh lấy cung Càn làm cung Phúc đức, thì ở ngôi nhà toạ bắc hướng nam Khôn môn, hoặc ngôi nhà toạ nam hướng bắc Càn môn là rất tốt, ở ngôi nhà toạ đông hướng tây Càn môn, Khôn môn, Đoài môn cũng tốt, nhà toạ nam hướng bắc phong Cấn Sửu sơn. toạ tây hướng đông phương Cấn Dần sơn cũng tốt. Cổng nhà nên mở ở phương Tây bắc Càn sơn, Hợi sơn, Tuất sơn; ở phương tây nam Khôn sơn, Mùi sơn, Thân sơn, thì rất tốt. Cổng ở phương chính tây Tân sơn, đông bắc Dần sơn, Sửu sơn, cũng tốt. Nhưng không được ở chính cấn sơn vì đó là Qui môn. Phòng ngủ thì lấy lầu trên phòng phía tây là tốt nhất; cũng có thể ở phòng phía bắc dãy tây, dãy đông, phòng phía nam dãy tây. Giếng nước, chuồng gia súc mà đặt ở phương chính tây thì đại cát. Bếp ở phương nam Bính sơn, cối giã gạo ở phương chính đông, đông nam là đại cát Phóng thủy (thoát nước) ở phương đông Giáp sơn, Ất Sơn, phương bắc Nhâm sơn, Qúy sơn là đại cát. Khôn mệnh, Cấn mệnh, Đoài mệnh cũng theo nguyên tắc tương tự đó là căn cử trật tự sắp xếp Bát quái cửu tinh, ở phương vị cát tinh thì bố trí toạ hướng, mở cổng cửa, làm phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; còn ở phương vị hung tinh thì bố trí bếp núc, nhà xí, cối giã gạo.
Phúc đức : Còn gọi là cung Phúc đức. Chỉ nơi ký gửi năm mệnh của chu nhà, phương vị của nó dùng Bát quái thay thế. Ví dụ, nếu Phúc đức của một người chủ nhà nào đó là Càn, ắt người đó thuộc Tây tứ vị, nên ở Tây tứ trạch, mở cổng ở vị trí Càn (tây bắc). nếu Phúc đức của một người chủ nhà nào đó là Chấn, ắt người đó thuộc Đông tứ vị, nên ở Đông tứ trạch, mở cổng ở vị trí Chấn ( chính đông). Muốn biết cung Phúc đức ở quẻ nào, có thể dùng Tam nguyên pháp mà tính. Biết nó ở quẻ nào rồi, thì dùng Đại du niên biến hào pháp sẽ tính ra tình trạng lành dữ của 8 phương vị (Tứ chính và Tứ ngung).
Du niên biến trạch pháp : phương pháp tính lành dữ năm làm nhà căn cứ tuổi của chủ nhà. Cần phối hợp với Tam nguyên pháp, Cửu cung kiến trạch pháp, Đại du niên biến hào pháp. Cách tính như sau. Nam nữ đều khởi tính từ Đoài là 10 tuổi, nam thì đến Ly 20 tuổi, đến Chấn 30 tuổi đến Khảm 40 tuổi. đến Càn 41 tuổi, đến Đoài 42 tuổi. Theo Tam nguyên pháp, nữ sinh năm Bính Ngọ, trung nguyên, thì cung Phúc đức nằm ở quẻ Cấn. Theo Cửu cung kiến trạch pháp, định cung Sinh của người này là Chấn; rồi theo Đại du niên biến hào pháp tính ra các phương vị sắp xếp Cửu tinh cho Chấn trạch như sau : Phúc đức ( Chấn), Diên niên (Tốn), Sinh khí (Ly), Hoạ hại ( Khôn ), Tuyệt mệnh ( Đoài ), Ngũ quỉ ( Càn ), Thiên ất ( Khảm ), Lục sát ( Cấn ). Đã biết Du niên của người ấy ở Đoài, vị trí đó là Tuyệt mệnh, thì năm Đinh Hợi 42 tuổi tuyệt đối không được làm nhà, đại hung.
Theo Du niên biến trạch pháp, sẽ biến được tình trạng cát hung Cửu tinh diên niên của chủ nhà như sau. Biến được Thiên ất, chỉ trong một năm nhà ấy có người đỗ cao; biến được Sinh khí, chủ nhân khâu và gia súc tăng nhiều, phú quí liên tục; biến được Diên niên, chủ trong vòng 180 ngày có tin vui, hỉ sự; biến được Phúc đức (Phục vị), chủ người nhà đi xa trở về đoàn tụ. Đó là 4 cát tinh, gặp chúng thì nên khởi công tu tạo nhà ở. Câu
ca nói : "Sinh khí Diên niên kiêm Phục vị, Thiên ất tứ lộ hảo hưng công" ( Dương trạch thực thư). Biến được Lục sát, chủ người nhà bị chết trong vòng một năm có tai họa lớn; biến được Ngũ quỉ, thì trong vòng 200 ngày sẽ có tang; biến được Tuyệt mệnh, chủ hai năm sau, con trai giữa sẽ bị chết; biến được Hoạ hại, hao tài tốn của. Đó là 4 hung tinh, gặp chúng thì không nên động thổ làm nhà
Cứu cung biến trạch pháp : phương pháp tính cung Định sinh căn cứ vào nơi ký gửi cung Phúc đức của chủ nhà. Cần kết hợp với Tam nguyên pháp. Trình tự cụ thể như sau. Theo Tam nguyên pháp mà tính ra xem cung phúc đức của chủ nhà nằm ở quẻ nào; tiếp đó theo hình bàn tay Dã mã khiêu động đồ mà khởi tính số 1 từ cung ấy, bấ kể nam nữ, theo chiều nghịch lùi lại 5 cung, tức là cung Định Sinh. Ví dụ, chủ nhà là nam, sinh năm Canh Tý, thượng nguyên. Theo Tam nguyên pháp, tính ra cung Phúc đức (bản cung) nằm ở Khảm, lùi ngược lại là Ly, lùi tiếp 5 cung đến 5 trung là vị trí Ngọ, nam giới thì 5 cung ky gửi tại Khôn, ta biết cung Định Sinh của anh ta là Khôn. Ví dụ khác, chủ nhà là nữ, sinh năm Giáp Tuất, hạ nguyên. Dùng Tam nguyên pháp tính ra Bản cung nằm tại Ly, lùi lại sau Ly là Cấn, từ Cấn lùi trên ngón tay 5 cung là Tốn, ắt ta biết cung Định Sinh của người này là Tốn. Sau khi biết cung Định Sinh, có thể dùng phương vị Bát trạch cửu tinh cùng Du niên biến trạch pháp mà tính được Du niên sở tại, tử đó sẽ biết cát hung của việc khởi công tu tạo nhà ở.
Hành niên hiên trạch pháp : Phương pháp mê tín lấy hành niên của chủ nhà để tính cát hung cho việc làm nhà. Đem 12 thần phối với 12 địa chi, qui định rằng năm Tý là Thần hậu, năm Dần là Công tào, năm Ngọ là Thắng Quang, năm Thân là Truyền Tống; 4 năm đó gọi chung là năm Đại thông, tu tạo nhà ở sẽ đại lợi. Năm Hợi là Đăng Minh, năm Sửu là Đại Cát, năm Mùi là Tiểu Cát Ba năm này gọi chung là năm Tiểu thông, nên tu tạo nhà ở. Năm Mão là Thái Xung, năm Dậu là Tòng Khôi, năm Ty là Thái ất; ba năm này là năm tiểu hung, không nên tu tạo nhà ở. Năm Thìn là Thiên Canh, năm Tuất là Hà Khôi, hai năm này đại hung, làm nhà sẽ gặp tai hoạ. Câu ca nói : " Tý Ngọ Dần Thân vi Đại thông, Tiểu thông Sửu Hợi Mùi Đăng Minh, Thái ất Mão Dậu bất kham tạo, Thìn Tuất Thiên Canh vị đại hung (Dương trạch thập thu ). Đã biết cát hung 12 năm, sẽ phân ra nam nữ để tính hành niên của chủ nhân để định lành dữ. Đầu tiên giở xem bảng Lục thập Giáp tý. Từ năm Giáp tý trở xuống 10 năm là tuần giáp tý, từ năm Giáp tuất trỏ xuống 10 năm là tuần Giáp tuất, tương tự là tuần giáp thân, tuân Giáp ngọ, tuần Giáp thìn, tuần Giáp dần. Mệnh nam, người sinh vào tuần Giáp tý, 1 tuổi khởi tính từ Bính dần, 11 tuổi là Bính tý, 21 tuổi là Bính tuất, 31 tuổi là Bính thân, 41 tuổi là Bính ngọ, 51 tuổi là Bính thìn, 61 tuổi là bính dần. Người sinh vào tuần giáp tuất 1 tuổi khởi bính tý, 11 tuổi là Bính tuất. Người sinh vào tuần Giáp thân 1 tuổi khởi Bính tuất, 11 tuổi là Bính thân. Người sinh vào tuần Giáp ngọ, 1 tuổi khởi Bính thân, 11 tuổi là Bính ngọ. Người sinh vào tuần giáp thìn, 1 tuổi khởi Bính ngọ, 1 1 tuổi là Bính thìn. Người sinh vào tuần Giáp dần, 1 tuổi khởi Bính thìn, 11 tuổi là Bính dần. Mệnh nữ thì người sinh vào tuần Giáp ty, 1 tuổi khởi Nhâm thân, 11 tuppri là Nhâm tuất 21 tuổi là Nhâm tý, 31 tuổi là Nhâm dần, 41 tuổi là Nhâm thìn, 4l tuổi là Nhâm ngọ, 5l tuổi là Nhâm thân. Người sinh vào tuần Giáp tuất, 1 tuổi khởi Nhâm tuất, 11 tuổi là Nhâm tý; người sinh vào tuần Giáp thân, 1 tuổi khỏi Nhâm tý, 11 tuổi là Nhâm dần; người sinh vào tuần Giáp ngọ, 1 tuổi khởi Nhâm dần, 11 tuổi là Nhâm thìn; người sinh vào tuần Giáp thìn 1 tuổi khỏi Nhâm thìn, 11 tuổi là Nhâm ngọ; người sinh vào tuần Giáp dần 1 tuổi khởi Nhâm ngọ, 1 1 tuổi là Nhâm thân. Khi tính toán, cần chú ý đối vơi nam , theo chiều ngang tính nghịch, theo cột dọc tính thuận, còn đối với nữ, theo chiều ngang tính thuận, theo cột dọc tính nghịch. Tức la nam tính từ phải sang trái theo chiều ngang hết hàng ngang thì chuyển xuống dưới 1 hàng; nữ thì tính từ trái sang phải theo chiều ngang, đến cuối thì chuyển lên 1 hàng. Vi dụ, chủ nha là nam, sinh năm Tân Sửu, đến nam Mậu Tuất là 58 tuổi ( tuổi mụ). Tân Sửu thuộc tuần Giáp Ngọ, 1 tuổi khởi tính từ Bính thân, 11 tuổi là Bính ngọ, 21 tuổi là Bính thân, 3l tuổi là Bính dần, 41 tuổi là Bính tý, 51 tuổi là Bính tuất, theo chiều ngang lùi lại là ất Dậu 52 tuổi, Giáp thân 53 tuổi, theo cột dọc tính thuận, chuyển xuống 1 hàng là Qúy mão 54 tuổi, Nhâm dần 55 tuổi, tân sửu 56 tuổi, Canh tý 57 tuổi đến Kỷ hợi 58 tuổi. Thuận với hành niên của chủ nhà tài lợi, Hợi là Đăng Minh, là năm Tiểu thông, có thể làm nhà, vậy thì biết rằng năm ông này 58 tuổi mà làm nhà thì tốt. Ví dụ khác, chủ nhà là nữ, sinh năm Đinh sửu, đến năm Tân dậu là 45 tuổi (tuổi mụ). Đinh sửu thuộc tuần Giáp tuất, 1 tuổi khởi Nhâm tuất, 11 tuổi là Nhâm tý , 21 tuổi là Nhâm dần, 31 tuổi là Nhâm thìn, 41 tuổi là Nhâm ngọ, chiều ngang tính thuận đến Qúy mùi 42 tuổi, cột dọc tinh nghịch, chuyển lên 1 hàng là Giáp tý, 43 tuổi, tiếp đến ất sửu 44 tuổi, Bính dần 45 tuổi, thuận với hành niên của bà này tại Dần, Dần là Công Tào, là năm Đại thông, làm nhà thì đại lợi. Vậy ta biết bà này mà làm nhà vào năm 45 tuổi thì rất tốt.
Mệnh tiền ngũ thần pháp : phương pháp tính năm làm nhà cát hung căn cứ năm sinh của chủ nhà và Thái tuế sở tại Ngũ thần tức là đem 10 thiên can chia ra 5 nhóm, mỗi nhóm 1 thần, cộng là 5 thần, cát hung khác nhau. Giáp, ất là Thanh Long; Bính, Đinh là Minh Hỷ; Mậu, Kỷ là Thương Khố; ba thần ấy là thần hành. Thương khố chủ lúa thóc đầy kho. Minh hỷ chủ hỉ sự dồn dập. Thanh long chủ đại phú đại quí, đều nên tu tạo nhà ở. Nhâm, Qúy là Đạo tặc, chủ chuốc họa trộm cướp, hao tài tốn của. Canh, Tân là Bạch hổ, chủ tai họa, tang tóc; đó là 2 hung thần, xung phạm thì đại hung, không nên tu tạo nhà cửa. Đem 5 thần trên phối với năm sinh của chủ nhà, tức là Mệnh tiền ngũ thần. Người sinh năm Tý ngũ thần ở Tỵ. Người sinh năm Sửu ngũ thần ở Ngọ. Người sinh năm Dần ngũ thần ở Mùi. Người sinh năm Mão ngũ thần ở Thân. Người sinh năm Thìn ngũ thần ở Dậu. Người sinh năm Tỵ ngũ thần ở Tuất. Người sinh năm Ngọ ngũ thần ở Hợi. Người sinh năm Mùi ngũ thần ở Tý. Người sinh năm Thân ngũ thần ở Sửu. Người sinh năm Dậu ngũ thần ở Dần. Người sinh năm Tuất ngũ thần ở Mão. Người sinh năm Hợi ngũ thần ở Thìn. Khi tính cụ thể thì phối hợp với Thái tuế sở tại và phép “Ngũ hổ độn". Thái tuế sở tại : năm Giáp tý tại Tý, năm ất sửu tại Sửu, năm Bính dần tại Dần, các năm khác cứ thế mà suy. Khẩu quyết “Ngũ hổ độn" là : Giáp, Kỷ chi niên Bính tác thủ, ất Canh chi tuế Mậu vi đầu, Bính Tân chi tuế tầm Canh thượng, Đinh Nhâm chi vị thuận hành lưu, Mậu Quý chi tuế hà phương khởi, Giáp dần chi thang hảo suy cầu” (Dương trạch thập thư). Nghĩa là năm Giáp, năm Kỷ thì khởi tính từ Bính dần; năm ất, Canh khỏi từ Mậu dần, năm Bính, tân khởi từ Canh dần; năm Đinh, Nhâm khởi từ Nhâm dần; năm Mậu Qúy khởi từ Giáp dần. Lại tham chiếu bảng Lục thập Giáp tý để biết Mệnh tiền ngũ thần sở tại của chủ nhà. Ví dụ, một người sinh năm Ngọ muốn biết năm Mậu Tuất tu tạo nhà ở lành dữ thế nào. Thái tuế là Mậu Tuất. Theo Ngũ hổ độn, năm Mậu, Qúy khởi Giáp dần, ở bảng Lục thập giáp tý ta hướng sang bên phải thuận đến Qúy hợi. Người sinh năm Ngọ, ngũ thần tại Hợi, cho nên phải đếm từ Giáp dần trở đi, tới năm Hợi thì dừng. Qúy là Đạo Tặc, vậy Mệnh tiền ngũ thần năm mậu Tuất của ông tuổi Ngọ nói trên là Đạo Tặc, không nên tu tạo nhà cửa. Ví dụ khác, người sinh năm Tuất muốn biết năm ất sửu tu tạo nhà ở lành dữ thế nào. Thái tuế là ất Sửu. Theo Ngũ hổ độn, năm ất, Canh khởi Mậu dần, ở bảng Lục thập giáp tý ta hướng sang bên phải thuận đến năm Mão. Người sinh năm Tuất thì ngũ thần ở Mão. Mậu, Kỷ là Thương Khố, chủ tiền của đầy kho, vậy người ấy làm nhà vào năm ất Sửu thì đại lợi.
Định tinh : Tức sao Doanh Thất, còn gọi là sao Doanh, một trong Nhị thập bát tú (28 sao). Phong tục thời xưa lấy phương vị sao Định sở tại để khởi công động thổ cho rằng đó là lành. Phương vị sao Định trong 12 tháng không giống nhau, tháng Giêng nhìn thấy nó ở Thìn, tháng hai nhìn thấy nó ở Mão, tháng ba nhìn thấy nó ở Dần, tháng tư nhìn thấy nó ở Sửu, tháng năm nhìn thấy nó ở Tý, tháng sáu nhìn thấy nó ở Hợi, tháng bảy nhìn thấy nó ở Tuất, tháng tám nhìn thấy nó ở Dậu, tháng chín nhìn thấy nó ở Thân, tháng mười nhìn thấy nó ở Mùi, tháng 11 nhìn thấy nó ở Ngọ, tháng Chạp nhìn thấy nó ở Tỵ. Phương vị sở tại của sao Định cùng phương vị hai sơn tả hữu là có lợi cho việc khởi công động thổ. Ví dụ, tháng Giêng thấy sao Định ở Thìn, thì tại 3 phương vị Tốn sơn, Thìn sơn, ất sơn đều có thể động thổ; tháng hai thấy nó ở Mão, thì tại ba phương vị ất sơn, Mão sơn, Giáp sơn đều có thể đọng thổ. Tiếp theo các tháng khác cứ theo đó mà suy.
Thần sát xuất du nhật : Chỉ các ngày mà Thái tuế cùng các Thần sát khác rời vị trí sở tại đi tuần du 5 phương. Trừ phương vị mà các thần Sát đến tuần du, các phương còn lại đều có thể khởi công động thổ. Ví dụ nếu các thần đi tuần ở trung ương, thì bốn phương còn lại không hề bị cấm kỵ. Các thần đi tuần lấy Thái tuế làm đầu, trong 5 ngày giáp tý, ất sửu, bính dần, đinh mão mậu thìn đi tuần ở phương đông, trong 7 ngày kỷ tỵ, canh ngọ, tân mùi, nhâm thân, qúy dậu, giáp tuất, ất hợi thì các thần trở về vị trí cũ; trong 5 ngày bính tý, đinh sửu, mậu dần, kỷ mão, canh thìn đi tuần ở phương nam, trong 7 ngày tân ty, nhâm ngọ, qúy mùi, giáp thân, ất dậu, bính tuất, đinh hợi thì các thần trở về vị trí cũ; trong 5 ngày mậu tý, kỷ sửu, canh dần, tân mão, nhâm thìn các thần đi tuần ở trung ương, trong 7 ngày quý tỵ, giáp ngọ, ất mùi, bính thân, đinh dậu, mậu tuất, kỷ hợi thì các thần trở về vị trí cũ ; trong 5 ngày canh tý, tân sửu, nhâm dần, quý mão, giáp thìn các thần đi tuần ở phương tây, trong 7 ngày ất tỵ, bính ngọ, đinh mùi, mậu thân, kỷ dậu, canh tuất, tân hợi thì các thần trở về vị trí cũ; trong 5 ngày nhâm tý, quý sửu, giáp dần, ất mão, bính thìn các thần đi tuần ở phương bắc, trong 7 ngày đinh tỵ, mậu ngọ, kỷ mùi, canh thân, tân dậu, nhâm tuất, quý hợi thì các thần trở về vị trí cũ; cứ thế mà xoay vòng mãi mãi.
Môn quang tinh : Sao Môn Quang theo Phong thủy dương trạch là những ngày trong tháng mà có sao này chiếu rọi thì tốt lành đối với việc đặt cửa, làm cửa và mở cửa. Có 2 cách tính sao Môn Quang. Một, theo khẩu quyết : "Thiêm thiêm tiêu tạc dạ vũ lâm ly vũ quá trường sa mãn động đình đao tại giang hồ lưu bất tận đắc trừng thanh xứ thị trùng thanh" ( tổng cộng 30 chữ, những chữ nào có bộ "Chấm thủy" tức là ngày có sao Môn Quang, như các chữ thiêm, tiêu, lâm, ly, sa, mãn, động, giang, hồ, lưu, trừng, thanh, là ngày lành, còn lại là ngày dữ. Tháng nào đủ thì dùng câu đó, tháng thiếu (có 29 ngày) thì bỏ chữ thứ ba, chữ “Tiêu”; tháng đủ hay tháng thiếu thì đều đếm từ ngày mồng 1 trở đi theo chiều thuận. Ví dụ, ngày 20 tháng đủ, đếm gặp chữ “Lưu” là lành; ngày 20 tháng thiếu, bỏ chủ thứ ba, nên đếm ngày ấy gặp chữ “Bất” là hung. Cách thứ hai, dựa vào ký hiệu sắp xếp cố định để tìm sao Mơn Quang
Tháng đủ 30 ngày thì tính ngược từ phía sau lên phía trước; tháng thiếu chỉ có 29 ngày, thì tính thuận từ trước ra sau, gặp ký hiệu O là ngày lành, gặp hai ký hiệu H và X là ngày hung ( X thì hại cho gia súc, H thì hại cho người). Ví dụ, ngày 21 tháng đủ, tính từ sau ngược lên trước, gặp ký hiệu H, là hung. Tháng thiếu, ngày 21, đếm thuận từ trước ra sau, cũng gặp ký hiệu H là hung.
Bốc nhật : Bói để biết ngày giờ lành dữ. Cũng chỉ việc chọn ngày tốt để chôn cất, làm nhà hoặc chuyển nhà. Thuật Phong thủy cho rằng việc chôn cất, dựng nhà, chuyển chỗ ở nếu không chọn năm, thang, ngày, giờ tốt, đất tốt thì sẽ hóa thành hung; cho nên rất coi trọng Bốc nhập Sách Duyệt vi tháo đường bút ký của Kỷ Vân đời Thanh có chép : "Nhà họ Mã nọ trong nhà bỗng nhiên xuất hiện những điều quái gở, khó tin, bèn "Bốc nhật"chuyển chỗ ở thì mọi việc trở lại yên lành".
Phù trấn pháp : Phương pháp mê tín ma nghìn xưa sử dụng bùa chú và các vật đặc định khác để trấn yểm nhà cửa, mộ phần hoặc công trình kiến trúc khác, đồng thời tiến hành nghi thức tương ứng đặng giải trừ điều dữ. Tục này có nguồn gốc rất sớm, thới kỳ Tiên Tần đã xuất hiện các hoạt động trấn yểm như người ta thấy về sau. Thời kỳ Hán Đường bùa chú thịnh hành khắp nơi với những hình thức vô cùng phức tạp. Phép trấn yểm liên quan đến âm dương trạch chủ yếu là viết, vẽ bùa, cử hành nghi thức nhất định, rồi đốt, treo hoặc chôn sâu lá bùa để ngăn chặn nhưng điều chẳng lành. Đồng thời tục chôn đá cũng rất thịnh hành, mà nội dung bao hàm từ việc bảo đảm sự bình yên cho ngôi nhà, đến việc đề phòng chuột cắn quần áo, nội dung trấn yểm trong Thuật Phong thủy cũng rất đa dạng, bao hàm đủ thứ ăn mặc, ở, đi lại, chủ yếu nhằm ngăn chặn các hiện tượng quái gở, bằng các hình thức như vẽ bùa, chôn đá, trát bùn đất, khắc gỗ làm tượng. . phép trấn yểm của Thuật Phong thủy, bùa chú của Dạo giáo sử dụng các biến thể Giáp cốt văn, Kim văn cùng phù hiệu vô ý nghía tạo nên, mang màu sắc kỳ bí là nhám an ủi tinh thần người khác. Tục chôn đá có liên quan đến sự sùng bái đá thời cổ. Có bùa chú sử dụng dược liệu, cũng có công dụng trừ tà chữa bệnh nhất định . Tuy nhiên, những nghi thức và vật phẩm đặc định chứng tỏ màu sắc thần bí quá rõ rệt của phép trấn yểm.
Tam giáo cứu trạch thần phù: Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng phàm gia quyến thân thích gặp nhiều tai ương là vì khi làm nhà gặp phải hung tinh cao lớn, cần làm nhà khác. Nếu không làm nhà khác, thì phải cấp tốc sử dụng “Tam giáo cứu trạch thần phù”, gồm 8 lá bìa, dùng bút bằng gỗ hồng đào mà viết vẽ, rồi đem dán ở 8 phương, vài tháng sau tai họa sẽ bớt dần.
Trấn lão trạch họa hoạn bát chỉ pháp : Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng phạm nhà làm đã lâu năm, sinh khí sắp kiệt, người và tiền của đều tổn thương. Cần lấy 5 thăng đất ở phương vị Bản cung Phúc đức của chú nhà, 5 thăng đất ở phương vị Thiên đức, Nguyệt đức trộn với bùn nước chảy về phía đông mà trát lên phương vị Thái tuế của ngôi nhà ấy. Tiếp đó dùng bút mực son vẽ bùa mà yểm. Mỗi trạch trong Bát trạch có số năm nhất định. Ví dụ càn trạch 40 năm là hết sinh khí; Khôn trạch thì 50 năm; nếu không làm nhà thác thì phải trấn yểm như trên.
Trấn trạch trung yêu tà pháp : Một trong các phép trấn yểm. Chủ ngăn chặn yêu tà trong nhà. Dùng bút mực son vẽ bài vị Phong Đô đại đế để thờ, tiếp đó dùng thanh bùa bằng gỗ bách dài 1 thước hai tấc mà trấn yểm trong nhà.
Trấn phòng ốc tụ hướng pháp : Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng đây là cách trân yểm để giải trừ hiện tượng phòng ốc tự dưng vô cớ phát ra âm thanh kỳ dị Dùng Bạch Chi, phèn trắng và một hòn đá xanh nặng 60 cân, Chu Sa 1 tiền, Hùng Hoàng 1 tiền rưỡi, cọng cỏ 7 cái, lấy đất và nước ở phương vị Thiên đức, Nguyệt đức, mỗi thứ 1 thăng, hoà với bùn mà trát lên chỗ có âm thanh lạ.
Trấn thủy tinh pháp : Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng nếu người ta đào giếng không ở phương vị tốt, thì sẽ gặp hung họa. Khi đó phải dùng hai phiến gỗ bách dài 1 thước rưỡi, dùng bút mực son vẽ hai tấm bùa “Ngũ phương thần chú” đính ở miệng giếng. Lại thả một hòn đá và 1 thăng ngũ cốc vào trong giếng, miệng niệm chú câu sau 7 lần : “Thần giếng năm phương, hãy ở yên chỗ mình".
Trấn lân cư động thổ xung phạm pháp Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng phàm bốn phía quanh nhà mình mà người ta động thổ làm nhà sẽ đều xung phạm nhà mình, là hung. Phải lấy 3 phiến gỗ dai 3 thước 6 tấc hoặc 1 thước 2 tấc, dùng bút mực son vẽ ba tấm bùa rồi treo ở giữa nhà mình.
Mộ huyệt phù : Một trong các phép trấn yểm. Chuyên dùng ở huyệt mộ. Lấy 4 phiến gỗ đào dài 1 thước, vẽ và viết trên đó như rồi cắm ở 4 góc mộ huyệt, để giải trừ hiện tượng nhà cửa không yên, tiền tài hao tán.
Giải thổ : Tức cúng Thổ thần để giải trừ hung họa. Thời trước, sau khi ngôi nhà được làm xong, chủ nhà phải làm lê cúng tạ ơn Thổ thần, vì động thổ làm nhà e xúc phạm đến quỉ thần tứ phương. Thường là dùng đất nặn tượng quỉ thần, mời thày cúng tới làm lễ, niệm chú.
Thạch thu đường : Một trong các phép trấn yểm. Khi cổng nhà mình đối diện với đường hẻm, cầu, thì dùng tấm bia đa, trên khắc ba chủ "Thạch thủ đường" hoặc năm chữ “Hoàng đế thạch thủ đương” chôn ngay trước cổng để trấn yểâm. Có nhiều thuyết nói về nguồn gốc phong tục này. Có thuyết nói nó xuất hiện từ thời Hoàng đế đánh nhau với Si Vưu; có thuyết nói nó bắt nguồn từ thời Tây Chu, có thuyết bảo từ thời Ngũ đại Văn tự nhắc đến “Thạch thủ đương" sớm nhất là trong sạch Cấp tựu chương của Sử Du đời Hán. Nhan Sư Cổ đời Đường chú giải: “Thạch là họ, thủ đương là mượn tên gọi mà thôi; ý nói là không có gì địch nổi". Phong thủy dương trạch dùng “Thạch thủ đong" để trấn yểm khi có đường hầm hoặc cây cầu đâm thẳng vào phía cổng nha. Đa cần được khắc vào 10 ngày sau giết Đông chí, là các ngày Giáp thìn, Bính thìn, mậu thìn, canh thìn, nhâm thìn, giáp dần, bính dần, mậu dần, canh dần, nhâm dần, tức là vào “các ngày Long (thìn), Hổ (dần). Bia làm xong đêm Trừ tịch dùng ba miếng thịt sống ma cúng, rồi vào giờ Dần thì đem cắm ở cổng.
Sơn trấn hải : Một trong các phép trấn yểm. Khi cổng nhà bị đường hẻm đâm thẳng vào, thì dùng một tấm bia đá có khắc ba chữ “Sơn trấn hải" cắm ở trước cổng để trấn áp điều xấu. Tương tự “Thạch thủ dương", song không được phổ biến rộng rãi bằng.

NHÂN VẬT VÀ ĐIỂN TỊCH

Sủ Lý Tử: (300 trước CN). Tên là Tật, em trai của Tân Huệ Vương, từng nhiều lần đem quân Tần đi chinh phạt các nước Triệum Ngụy, Sở; được phong tước Nghiêm Quân. Khi Tần Vũ Vương lên ngôi ông làm Tả thừa tướng.
Là một người túc trí đa mưu, biệt hiệu “Trí Nang" (túi khôn). Sắp chết đa chọn trước cho mình mộ huyệt ở phía nam Vị Thuỷ và nói : “Trăm năm sau, sẽ có cung tiến từ bên mộ của ta”. Đến đời Hán hưng thịnh, ngươi ta đã xây dựng cung Trường Lạc ở phía đông ngôi mộ và cung Vị Ương ở phía tây ngôi mộ, kho vũ khí thì ở ngay chỗ ngôi mộ. Việc này không đáng tin lắm, nhưng các nhà phong thủy dựa vào đó coi Sù Lí Tử là nhà địa lý nổi danh đầu tiên.
Thanh Ô tiên sinh : Tức Thanh Ô Tử, người đời Hán. Có thuyết nói ông là người thời Hoàng đế. Tương truyền tinh thông Thuật Phong thủy. Hiện có Thanh Ô tiên sinh táng kinh, 1 quyển, nghi là do người thời Tấn - Đường mạo danh viết ra. Lại có Cựu đường thư Kinh tịch chí chép Thanh Ô Tử, 3 quyển, đã thất lạc.
Quản Lộ : ( năm 207 - 256 ), tự Công Minh, người nước Ngụy, ở Bình Nguyên (nay là tây nam huyện Bình Nguyên, tỉnh Sơn đông). Nổi tiếng thần đồng. Từng được thái thú Thanh Hà tên là Hoa khen có tài văn chương, lại được thứ sử Ký châu cho giữ chức Văn học tòng sự, sau đỗ tú tài, làm quan đến chức Thiếu phủ thừa. Quản Lộ tinh thông Chu Dịch, bói toán, Phong thủy, đoán gì đúng nấy. Từng qua chỗ mộ Vô Khưu Kiệm, tựa gốc cây buồn bã nói "Cây cối rậm rạp như rừng, nhưng vô hình chẳng thể sống lâu; bia mộ tuy đẹp, nhưng không có mặt sau để giữ. Huyền vũ rụt đầu, Thương long không chân, Bạch hổ ngậm xác, Chu tước than khóc, 4 cái nguy đều có cả, đó là cái họa giết cả họ" (Tam quốc chí, quyển 29. Đây là thuyết Tứ linh của Thuật Phong thủy được thể hiện lần đầu bằng văn tự.
Hiện còn sách Quán thị địa lý chí mông, 1 quyển, thực ra là của người đời sau mạo danh. Xem thêm mục Quán thị đều lý chi mông).
Quách Phác : ( năm 276 - 324), tự Cảnh Thuần, người cuối thời Tây Tấn, huyện Văn Hỷ, Hà Đông (nay là huyện Văn Hỷ, tỉnh Sơn Tây), tránh loạn đến Giang Đông, lúc đầu được Thái thú thành Tuyên cho làm Tham quân, sau làm Trước tác tá lang, rồi mượn cớ mẹ mất mà từ chức. Sau lại được Vương Đôn ban chức Ký thết tham quân, nhưng vì không theo Đôn mưu phản nên bị Đôn giết. Quách Phác thuở nhỏ yêu thích kinh thuật thơ phú nổi danh một thời, sau theo Quách Công học Dịch lý, địa lý, thiên văn, bói toán , được Quách Công tặng Thanh nang thư. Từng chọn đất mai táng cho mẹ ở bãi sông, người ta báo sao lại chôn dưới nước, ông nói rồi nơi đây sẽ thành đất khô. Quả nhiên về sau nơi đó được cát bồi thành nương dâu. Lại từng chọn mộ cho người khác. Tấn Minh đế từng tới xem, hỏi chủ nhân vì sao chôn ở đất “Long giác", dễ thành tai họa cả họ bị giết. Chủ nhân đáp rằng Quách Phác bảo táng ở tai rồng thì sẽ được nhà vua hỏi tới. Huyền thoại này e của người đời Đường, khó tin. Hiện có sách Táng thư còn gọi là Táng kinh. 1 quyển, đề của Quách Phác, có lẽ do người đời Đường mạo danh viết nên.
Tiêu Cát : Tự Văn Hưu, người Lan Lăng (nay là tây bắc thành phố Thường Châu, tỉnh Giang Tô), cháu của Lương Vũ Đế. Nhà Lương diệt vong, ông vào Bắc Ngụy làm Nghi đồng. Sau khi nhà Tùy thống nhất, ông làm quan đến chức Thượng nghi đồng, Thái thường; Tùy Dạng Đế lên ngôi, phong ông chức Phủ thiếu khanh. Chết khi đang làm quan. Tiêu Cát là người uyên bác, tinh thông âm dương, thuật đoán mệnh , Thuật Phong thủy. Nhân Thái tử ở Đông cung hay thấy ma quỉ, ông đã lập đàn thần trấn yểm. Lại chọn mộ cho Văn Đế hoàng hậu. Trước tác về phong thủy có Trạch kinh, ý quyển, Táng kinh 6 quyển ; nay đều thất truyền. Song trong trước tác của các nhà phong thuỷ đời sau thường dẫn lời của Tiêu Cát.
Thư Xước : Người Đông Dương (nay thuộc tỉnh Chiết Giang), đời nhà Tùy. Giỏi thuật số địa lý. Tể tướng Dương Cung Nhân muốn dời mộ tổ, bèn mời năm sáu ông thày nổi tiếng trong nước tới, lấy đất ở 4 góc ngôi mộ, mỗi góc 1 đấu, vẽ địa hình ngôi mộ rồi bỏ vào phong bì dán kín lại, đoạn đưa đất ra cho các thày phán. Duy chỉ có Thư Xước nói rằng đất ấy có phúc và miêu tả hình thế giống hệt như thực địa. Thiên hạ nhân đó tôn ông là thánh phong thủy. Đây là một ví dụ điển hình về phép nhìn đạt biết phong thủy thời cổ .
Lã Tài : ( 665 ), ngươi đời Đường, ở Thanh Bình, Bác Châu ( nay là huyện Liêu, tỉnh Sơn Đông). Giỏi âm dương, thiên văn, phương thuật, địa lý, âm luật học. Thời Trinh Quán vào cung Huyền Văn, làm Lụy thiên thái thường bác sĩ, Thái thường thừa. Từng được triều vào triều san định sách âm dương để ban hành cho thiên hạ. Còn làm “Phương vực đồ”. Các trước tác phần lớn nay đã thất truyền. Hiện còn Tự trạch kinh , Tự táng thư, Tự trạch kinh chuyện bàn về cách phối ngũ tính với ngũ hành để xác định cát hung của nhà ở và huyệt mộ. Táng táng thư thì nói đại ý rằng Táng thư có đến 120 nhà, với đủ thứ thuyết cát hung, cấm kỵ. Song thời thượng cổ chôn cất có ai chọn lựa gì năm tháng ngày giờ chẳng ai tin chuyện lành dữ, cũng không phân biệt họ tên, tước vị, quan chức. Như vậy táng thư chỉ làm bại hoại phong tục, làm những chuyện vô bổ. Lã Tây là người đầu tiên thời cổ đi sâu vào Thuật Phong thủy mà phê phán các yếu tố mê tín.
Lý Thuần Phong : ( năm 602 - 670), người đời Đường ở đất Ung, Kỳ châu ( nay là phía nam huyện Phụng Tường tỉnh Thiểm tây). Đầu thời Trinh Quăn, từ chức Tướng sĩ lang vào thẳng Thái sử cục, chế ra máy Hỗn thiên nghi, dần dần được thăng đến chức Thái sử lệnh. Trước tác phong thuỷ có Trạch kinh, Aâm dương chính yếu, nay không rõ bao nhiêu quyển, ngờ rằng do người đời sau mượn tên soạn nên.
Khâu Diên Hàn : Tự Dực Chỉ, người đời Đường, ở đất Văn Hỷ ( nay là huyện Văn Hỷ, tỉnh Sơn Tây ). Thuở nhỏ nổi tiếng về văn thơ. Truyền thuyết kể rằng Khâu từng du ngoạn Thái Sơn, gặp thần trong hang đá. nhận “Hải giác kinh", nhờ đó thông hiếu âm dương, phong thủy.
Khoảng năm Khai Nguyên ( 7 1 8 - 714 ) có chọn mộ cho viên tri huyện, có khí thiên tử bốc lên trên mộ. Triều đình kỵ điều đó, sai phá bỏ mộ, đồng thời hạ chiếu bắt giữ Khâu Diên Hàn, nhưng ông trốn được. Sau triều đình tha tội, Khâu đem dâng Thiên cơ thư. Đường Huyền Tông phong làm Á đại phu và cất sách kia vào hộp ngọc. Cuối đời Đường thì sách ấy bị Dương Quân Tùng, Tăng Cầu Kỷ lấy trộm. Trước tác có Ngọc hàm kinh , 1 quyển, Hoàng nang đại quái quyết 1 quyển, Nội truyện thiên hoàng biết cực trấn thế thần thư 3 quyển. Theo Địa lý chính tông, Khâu Diên Hàn là đệ tử của Phạm Việt Phụng, mà Phạm Việt Phụng là cao túc của Dương Quân Tùng. Dương là người thời Hi Tông, Khâu là người thời Cao Tông, như vậy là lẫn lộn về thời gian, chứng tỏ truyền thuyết về sự việc và trước tác không đáng tin, là do người đời sau tạo ra.
Dương Quân Tùng : Vốn tên là ích, tự Thúc Mậu, hiệu Cứu Bần, người Đậu châu ( nay là phía nam huyện Tín Nghi tỉnh Quảng Đông ) đời Đường. Thời Hi Tông, ông làm Quốc sư, làm quan đến chức Kim tứ quang lộc đại phu, phụ trách công việc địa lý của Linh Đài. Năm Quảng Minh ( năm 880 ), khi nghĩa quân Hoàng Sào tiến đánh kinh đô, Dương Quân Tùng thửa cơ rối ren đã lấy trộm sách Thiên cơ thư cất trong hộp ngọc của hoàng thất rồi trốn đến núi Côn Luân, sau đến Kiền châu hành nghề địa lý phong thủy, sáng lập nên phai Giang Tây, được đời sau tôn là tổ sư chính tông của Thuật Phong thủy. Học thuyết của ông lấy hình pháp làm chính, chú trọng hình thế sông núi, phối hợp Long – Huyệt – Sa – Thủy, chú trọng bám sát thực địa , mà ít dung phép suy lý. Về sau do học thuyết này lấy hình pháp làm chỗ dựa, bởi vậy chủ yếu được áp dụng cho Phong thủy âm trạch, mà ít cho phong thủy dương trạch. Trước tác có Hám Long Kinh 1 quyển , Nghi long kinh 1 quyển, Táng pháp chế trượng còn gọi là Thập nhị trượng pháp 1 quyển, Thanh nang áo ngữ 1 quyển, Thên ngọc kinh 1 quyển, Hắc nanh kinh, Tam thập lục long. Nhưng việc và sách của ông không thấy chép trong sử truyện; duy Trực trai thư lục giải đề của Trần Chấn Tôn và Tống sử. Nghệ văn chí có chép 12 trước tác đề là của Dương Cứu Bần soạn. Các chuyện về ông phần lớn la do các nhà phong thủy lưu truyền.
Tăng Văn Siêm : Có khi viết la Tăng Văn Thuyên hoặc viết lầm thành Tăng văn Địch . Người Ninh Đô (nay là tỉnh Giang tây) đời Đường. Cha là Tăng cầu Kỷ đã cùng Dương Quân Tung lấy trộm Thiên cơ thư trong hộp ngọc của hoàng thất mà chạy đến Giang Nam. Ông là đệ tử giỏi nhất của Dương Quân Tùng, nổi tiếng không kém gì thầy; sau đem thuật học được truyền cho Trần Đoàn. Những điều đó lẫn lộn về thời gian, không đáng tin. Trước tác có Thanh nang tự 1 quyển.
Hà Phổ: Tự là Lệnh Thông, người thời Ngũ Đại, Nam Dường; quê quán, lai lịch không rõ. Có Linh thành tinh nghĩa, 2 quyển, thực ra la của người đời Minh mượn tên soạn nên. Xem mục Linh thành tinh nghĩa.
Ngô Cảnh Loan : ( 1068 ). Tự Trọng Tường, người Đức Hưng (nay là tỉnh Giang Tây ) đời Tống. Tương truyền cha ông là Ngô Khắc Thành từng theo học Trần Đoàn, được thầy truyền hết nghề. Loan từ bé thông minh đĩnh ngộ, được cha truyền lại cái học của Trần Đoàn. Năm Khánh Lịch thứ nhất ( năm 1041), triều đình hạ chiếu tuyển dụng các nhà âm dương. Ngô Cảnh Loan được tiến cử vào kinh đô, ứng đối trôi chảy được giữ chức Tư thiên giám chính. Sau do trái ý Tống Nhân Tông, bị hạ ngục. Nhân Tông chết,
ông được phóng thích, bèn gọt tóc giả điên, đi ẩn cư. Mất năm Trị Bình thứ nhất (l068 ). Cái học của ông được truyền cho con gái, sau truyền cho Liêu Vũ. Trước tác có Lý khí tâm ấn, Ngô Công giải nghĩa. Tiếp tục viết xong 2 cuốn sách cha mình viết dở là Thiên ngọc kinh ngoại truyện, Tứ khố toàn cục đồ.
Liêu Vũ : Tự Nghiêu Thuần, lại có tự là Vạn Bang, người Vu Đô ( nay là huyện Vu Đô, tỉnh Giang Tây ) đời Tống. Có thuyết nói lầm ông là người đời Đường. Thuở nhỏ thông minh, 15 tuổi thông thuộc ngũ kinh, dân làng nhân đó đặt cho biệt hiệu “Liêu Ngũ kinh". Khoảng năm Kiến Viêm ( 1127 - 1 130 ) đi thi không đỗ. Ông được truyền thụ cái học từ con gái của Ngô Cảnh Loan, tinh thông Thuật Phong thuỷ. Sau ẩn cư ở núi Kim Tinh, do vậy có biệt hiệu “Kim Tinh sơn nhân". Trong giới phong thủy, nổi tiếng ngang với Dương Quân Tùng, Liêu Văn Xiêm, Lại Văn Tuấn thành tên gọi gộp “Dương, Tăng, Liêu, Lại". Trước tác có Cửu tinh huyệt pháp, 4 quyển, Biết cực kim kinh (không rõ mấy quyển, nghi là do người đời sau mạo danh ).
Thái Nguyên Định : (năm l]35 – 1198) Tự Quý Thông, người Kiến Dương ( nay là tỉnh Phúc Kiến ). Cha vốn là nhà Lý học, thuở nhó ông theo học cha mình, sau thành học trò của Chu Hy, cùng Chu Hy biện luận ý nghĩa các kinh đến tận đêm khuya. Học trò bốn phương đến học, nếu hỏi gì thì Chu Hy bao giờ cũng trao đổi trước với Thái Nguyên Định . Khi Hàn Thái Trụ nêu việc “Cấm ngụy học” ông bị đày đi Đạo châu. Đến Xuân Lăng, học trò theo học càng đông. Ông chết ở đó, sau khi chết được truy tặng thụy hiệu Địch công lang, Văn Tiết. Trước tác rất nhiều, về phong thủy có Phát vi luận 1 quyển, dùng học thuyết Nho gia giải thích lý luận phong thủy. Xem thêm mục Phát vi luận.
Vương Cấp : Tự Triệu Khanh, còn có tự là Khổng Chương, người thời Nam Tống. Tổ tiên vốn ở Biện Châu (nay là thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam ), sau di cư đến Cán châu (nay là tỉnh Giang Tây). Vương Cấp chịu khó học hành, nhưng đi thi hai lần không đỗ, bèn bỏ nhà đi ngao du sơn thủy. Sau ông yêu thích phong cảnh núi Long Tuyền mà định cư tại Tùng Nguyên ( nay là huyện Tùng Khê, tỉnh Phúc Kiến ). Ông đọc các sách phong thủy của Quản Lộ, Quách Phác, nắm vững và vận dụng vào việc chọn huyệt mộ cho người ta, sao cho con cháu họ quí hiển, thường thường linh nghiệm. Lập luận của ông coi trọng lý pháp và các nguyên lý thuật số để định cát hung của phương vị tọa hướng, mà coi nhẹ hình thế sông núi, nên ông trở thành nhân vật tiêu biểu cho trường phái Phúc Kiến ( thiên về Lý pháp). Trước tác có Tam kinh và các ghi chép vấn đáp, được môn nhân là Diệp Thúc Lượng biên soạn thành sách.
Lại Văn Tuấn : Tự Thái Tố, hiệu Bố Y Tử, nên còn có tên Lãn Bố Y, người Xử châu (nay là huyện Lệ Thủy tỉnh Chiết Giang) đời Tống. Có thuyết nói ông người Ninh Đô ( nay là tỉnh Giang Tây) đời Đường là nhầm. Theo truyền ngôn của các nhà phong thủy, Lại Văn Tuấn là con rể Tăng Văn Siêm, đệ tử đời thứ ba của Dương Quân Tùng. Làm quan đến chức Kiến Dương lệnh, sau mê thuật phong thủy nên từ quan mà hành nghề địa lý. Hiện nay một dải đất Quảng Đông có rất nhiều truyền thuyết về ông. Trước tác có Thiệu Hưng đại địa bát kiềm, đã thất truyền. Chỉ còn Thôi quan thiên, 2 quyển.
Lưu Binh Trung : (năm 1216 - 1274). Thoạt đầu tên là Khản, tự Trọng Hối. Tổ tiên vốn là người Thụy châu (nay ]à thành phố Hình Đài tỉnh Hà Bắc ). Năm 17 tuổi làm Tiết độ sứ phủ lệnh sử Hình Đài, sau bỏ quan vào rừng đi tu, đổi tên thành Tư Thông. Hốt Tất Liệt (Nguyên Thế tổ) triệu vào dinh cùng bàn việc cơ mật, nên người ta gọi ông là “Thông thư ký". Sau khi Hốt Tất Liệt lên ngôi , liền phong cho ông chức Quang lộc đại phu, Thái bảo, Tham dự trung thư tỉnh sự và ban cho cái tên Bỉnh Trung. Ông tham gia bàn tính nhiều kế sách lớn trong thiên hạ. Ông tinh thông cái học âm dương địa lý, từng giám sát việc xây dựng Thượng Đô (hiện ở Nội Mông) và Đại Đô (nay là thành Bắc Kinh ), dùng Thuật Phong thuỷ để xác định qui mô hai Đô ấy. Cuối đời lại có hiệu Tàng Xuân Tản Nhân, khi chết được truy phong tước Thường son vương, thụy Văn Chinh. Trước tác có Ngọc Xích kinh 4 quyển, thực ra là của người đời sau mạo danh soạn nên.
Lưu Cơ : (năm 1311 – 1875) Tự Bá ôn, người Thanh Điền ( nay là tỉnh Chiết Giang ) đời Minh. Đỗ tiến sĩ cuối đời Nguyên, bỏ quan đi ẩn cư. Sau phò tá Chu Nguyên Chương dựng nước, giữ chức Khanh sử trung thừa, Thái sử lệnh, tước Thanh Yù bá. Khi mất được phong thụy Văn Thành. Lưu Cơ tinh thông âm dương, thiên văn, thuật số; người đời sau tạo các đồ thư thường mượn tên ông. Hiện còn Phệ can lộ đởm kinh. Kham dư mạn hung cùng nhiều bản chú.
Cung trạch địa hình : Tên sách. Không rõ tác giả. 20 quyển, đã thất truyền. Hán thư. Nghệ văn chí xếp vào phái Hình pháp. Sửù ký khảo chứng nói sách này bàn về phương vị phong thủy". Hán chí viết : “Thuộc loại Hình pháp, bàn về hình thế 9 châu đề xây dựng nhà cửa thành quách". Đủ biết sách này là trước tác phong thủy sớm nhất chuyên bàn về phong thủy dương trạch.
Kham du kim quí : Tên sách. Không rõ tác giả, 14 quyển, đã thất truyền. Hán thư. Nghệ văn chí xếp vào loại ngũ hành. Sử ký khảo chứng nói sách này bàn về “phương vị phong thủy". Theo Sử ký. Nhập giả liệt truyện, các nhà Kham dư (địa lý) từng tham khảo phần bàn về ngày lành cho việc cưới vợ, thuộc về “Chiêm gia” (thày bói), đủ biết đây không chỉ là sách phong thủy. Lai theo Luận hoành, Chu Lễ chú, Hoài Nam Tử, Thuyết văn giải tự, thì hai chữ Kham dư là tên vị thần, có thuyết nói la tên gọi chung trời đất, không phù hợp hoàn toàn với những gì phong thủy đề cập. Cho nên nghĩ rằng sách nay là sách bói toán, trong đó có phần bàn về phong thủy.
Thanh Ô tiên sinh táng kinh : Tên sách. Trước đề là do Thanh Ô tiên sinh (Thanh Ô Tử) đời Thanh soạn Kim thừa tướng Ngột Khâm Trắc chú, 1 quyển. Trong lời tựa viết: “Táng thư của họ Quách thường dẫn "Kinh viết” chính là sách này vậy”. Khảo cứu văn của Kinh viết trong Táng thư với Thanh ô tiên sinh táng thư, thì thấy có nhiều điểm giống nhau, song cũng có chỗ khác nhau. Tứ khố toàn thư tổng mục viết : “Văn sách này thiển cận, kinh với chú như của cùng một người viết ra, hẳn là người đời sau mạo danh kinh vậy”. Khảo cứu các sách như Văn tuyển, Sơ học ký, Thái bình ngự lãm có Sách Tướng chủng thư ( sách xem mộ) của Thanh Ô Tử thì nghi là sách này. Sách Táng thư ~ của Quách Phác đời Đường thì mãi về sau này (mấy trăm năm sau) mới xuất hiện, trong khi Tướng chủng thư thì đã sớm thất truyền cho nên nghi là người đời sau mạo danh viết ra. Nội dung Táng kinh khá tỉ mỉ, chuyên bàn về cát hung của hình thế sơn thủy, lại đưa ra những qui tắc thế nào là đất công hầu, đất tể tướng, đất phú quí, đất văn sĩ mà không có lý luận kèm theo.
Đồ trạch thuật : Tên sách. Tác giả là người thời Đông Hán, khuyết danh. Sách này nay đã thất truyền, chỉ còn hai đoạn văn nói sơ qua về lành dữ trong cách phối hợp ngũ tính ngũ hành nhà ở, thuộc loại văn tự sớm nhất về phong thủy còn giữ được đến ngày nay.
Quán thị địa lý chỉ mông : Tên sách. Trước đề là của Quản Lộ đời Tam Quốc nước Ngụy Soạn. Tổng cộng 100 thiên. Thực ra là sách của ngưđời đời Minh viết ra. Chuyên ban về hình pháp âm trạch là chính, văn từ thanh nhã, chú giải rõ ràng. Thuyết hình pháp đến đây đã hầu như hình thành quá nửa. Duy sách trình bày thành 100 thiên là gò ép miễn cưỡng, rắc rối khó đọc.
Táng thư : Tên sách. Còn gọi là Quách Phác táng thư, 1 quyển. Trước đề là do Quách Phác đời Tấn soạn; nhưng sách này xuất hiện lần đầu trong Tống sử. Nghệ văn chí khảo sát nội dung, thì sách này hẳn do người đời Đường viết, mạo danh Quách Phác. Sau khi sách ra đời các nhà phong thủy thêm thắt vào, thành ra hơn 20 thiên. Thái Nguyên Định đời Tống mới san định lại còn 8 thiên; Ngô Trứng san đinh lại còn 2 thiên nội, ngoại tức bản hiện hành. Sách này nêu các thuyết, như thuyết Sinh khí, thuyết Tam cát lục hung, thuyết Hình thế, thuyết Ngũ bất táng phát triển hoàn thiện thuyết Tứ linh; đồng thời đề xuất định nghĩa Phong thủy, tôn định hệ thống lý luận của Thuật Phong thủy, là tiêu chí hoàn toàn chín muồi của phong thủy âm trạch, trở thành một trước tác lý luận rất quan trọng của học thuyết phong thủy. Đời sau tôn sùng gọi là “Táng kinh". Trong Táng thư có nhiều chỗ viết hai chữ “Kinh nói”, đủ hiểu trước sách này từng có một bộ Táng kinh, sách nay chi la tiếp tục phát triển học thuyết kia mà thôi.
Thanh nang Hải giác kinh : Tên sách. Tên đầy đủ là Cửu thiên Huyền nữ thanh nang hải giác kinh, trước đề do Quách Phác đời Tấn tu chỉnh, đòng thời có lời tựa của Trương Sĩ Nguyên đời Tống và Ngô Thiên Tước đời Minh, 4 quyển. Sách này nửa đầu nói về Lý khi, nửa sau về Hình pháp, chuyên luận âm trạch, nội dung cực kỳ rắc rối. Tam ban đại quái, Long huyệt sa thủy, nào ngũ tinh cửu tinh, chính thể biến thể, đều tập hợp ở sách này. Có thiên chuyên bàn về huyệt pháp, lại được nhắc lại phía sau, văn từ lúc nhã lúc thô, dưới chính văn có chú văn, không rõ của ai. Ngờ rằng sách này là do người từ đời Minh trở đi mạo danh Quách Phác mà soạn nên.
Trạch kinh : Tên sách. Thời Tùy Đường có rất nhiều sách Trạch kinh lưu truyền, không dưới vài ba chục loại; theo người đời sau chép lại, thì có Hoàng đế nhị trạch kinh, Địa điển trạch kinh, Tam nguyên trạch kinh, Văn vương trạch kinh, Khổng tử trạch kinh, Thiên lão trạch kinh, Lưu căn trạch kinh, Huyền nữ trạch kinh, Tư Mã Thiên sư trạch kinh, Hòai nam Tử trạch kinh, Vương Vĩ trạch kinh, Tư tối trạch kinh, Lưu Tấn Bình trạch kinh, Lục thập tứ quái trạch kinh. Hữu bàn long trạch kinh, Tả bàn long trạch kinh, Lý Thuần Phong trạch kinh, Ngũ kinh trạch kinh, Lã Tài trạch kinh, Phi âm loạn phục trạch kinh, Tử Hạ trạch kinh, Điêu Đàm trạch kinh, Huyền Ngộ trạch kinh, Ngũ Phi trạch kinh, Bát Quái trạch kinh, Tiêu Cát trạch kinh .v.v… trong đó có một số là cùng một sách mà đề tên khác nhau, nay đã không thể khảo cứu, vì hiện chỉ còn Hoàng đế nhị trạch kinh, các sách khác đã thất truyền. Sự xuất hiện nhiều trạch kinh như vậy chứng tỏ trước tác phong thủy rất thịnh hành vào đời Tùy đường.
Hoàng đế trạch kinh : Tên sách. Còn gọi là Hoàng đế Nhị trạch kinh. Không rõ người soạn. 2 quyển. Nhị trạch tức là dương trạch và âm trạch. Sách chia ra 24 phương vị, khu biệt âm dương, qui định cát hung, xác định hưu cữu. Điều cơ bản là âm dương tương đắc, phương vị không loạn. Không khảo sát hình dạng cụ thể và địa hình xung quanh nhà ở, cho nên có học giả coi đây là trước tác đại biểu cho trường phái Lý pháp trong phong thủy. Sách bàn nhiều về việc chọn ngày có ảnh hưởng lớn tới việc chọn lựa ngày giờ của Thuật Phong thủy đời sau. Tứ khố toàn thư cho rằng sách này “rất có nghĩa lý” lại viết rằng trong Tổng sử có chép Tướng trạch kinh 1 quyển, chính quyển sách này. Nhưng khảo sát văn hiến Đôn Hoàng, thấy đã có văn bản Hoàng đế trạch kinh đủ giết sạch đã được lưu hành rộng rãi từ đời Đường, và hoàn toàn không phải là bản Tướng trạch kinh chép trong Tống sứ. Nghệ văn chí.
Thập nhị trượng pháp : Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Sách này chuyên bàn về phép điểm huyệt căn cứ hình thể bối hướng của Lai long, sự thuận nghịch mạnh yếu của khí mạch mà chia ra 12 loại huyệt pháp là : thuận trượng, nghịch trượng, túc trượng, xuyết trượng, khai trượng, xuyên trượng, cao trượng, một trượng, đối trượng, tài trượng, phạm trượng, đốn trượng. Tiếp đó lại phân ra 17 loại trượng kiêm như: thuận trượng kiêm nghịch, thuận trượng kiêm túc, thuận trượng kiêm xuyết, thuận trượng kiêm xuyên, thuận trượng kiêm cao, thuận trượng kiêm đốn, thuận trượng kiêm một, thuận trượng kiêm đối, thuận trượng kiêm tài, thuận trượng kiêm phạm, nghịch trượng kiêm túc, nghịch trượng kiêm xuyết, nghịch trượng kiêm khai, nghịch trượng kiêm xuyên, nghịch trượng kiêm cao.. Mỗi loại đều có đồ hình, mỗi đồ hình có thuyết minh, căn cứ trượng pháp định huyệt có thể tránh hung đón cát. Nguyên tắc chung là phân liệt từng li từng tấc để thụ khí. Dương Quân Tùng lại có Táng pháp đảo trượng, thực ra là Thập nhị trượng pháp, mà cuối sách kèm theo 1 thiên “24 sa táng pháp"' Thập nhị trượng pháp là trước tác quan trọng của trường phái Hình pháp của Thuật phong thùy, có ảnh hưởng rất lớn.
Nghi long kinh : Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lý Quốc Mộc đời Minh chú. Sách này gồm 3 thiên thượng, trung, hạ. Thiên thượng bàn về Can long tìm chi, lấy “thủy khẩu quan cục" làm chính; thiên trung bàn về phép tìm phần tận cùng của long, phép nhìn triều ứng trước sau, thiên hạ bàn về hình thế kết huyệt. Cuối sách kèm theo “Nghi long thập vấn" đề giải thích những chỗ khó. Là trước tác lý luận quan trọng, được lưu hành rộng rãi , của trường phái Hình pháp trong Thuật Phong thủy. Sách Trưc trai thư lục giải đề của Trần Chấn Tôn đời Tống co chép sách này, nhưng không nói ai là tác giả, nên Tứ khố tòan thư tống mục viết : “Bản này không biết của ai".
Hám long kinh : Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lý Quốc Mộc đời Minh chú. Sách này chuyên luận về hình thế của sơn long mạch lạc, chia ra 9 sao : Cự môn, Tham lang, Lộc tồn, Văn khúc, Vũ khúc, Liêm trinh, Phá quân, Hữu Bật để nhận biết hình dạng sơn và phân biệt cát hung. Là trước tác tiêu biểu của trường phái Hình pháp trong Thuật Phong thủy.
Thanh nang áo ngữ : Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lưu Cơ đời Minh chú. Sách này chuyên bàn về hình thế sông núi phân ra âm dương thuận nghịch, cửu tinh thất diệu để phân biệt cát hung quí tiện. Khảo sát sách Quận trai độc thư chí của Triệu Hy Biền đời Tống có chép Thanh nang bản chỉ, 1 quyển, không đề người soạn sách Trực trai thư lục giải đề có chép Diệu kim ca, Tam thập đồ tượng của Dương Quân Tùng, 1 quyển; sách Thông chí. Nghệ văn lọc của Trịnh Tiêu lại có chép Thanh nang kinh của Dương Quân Tùng, Tăng Văn Xiêm, 1 quyển không biết có phải là sách này chăng. Bản này được lưu hành đồng thời với Thanh nang tự của Tăng Văn Siêm.
Kim cương toàn bản hình pháp táng đồ quyết : Tên sách. Tên đấy đủ là Dương Tái Thương tiên nhân Dương công Kim cương tòan bản hình pháp táng đồ quyết, 1 quyển. Đầu sách có lời tựa, nói là của Dương Quân Tùng, rằng “Long hung mà huyệt cát, vô tình mà có tình vậy, tuy có phúc nhưng không lâu bền; còn long cát mà huyệt hung, có tình mà là vô tình vậy, tuy hung nhưng lại có phúc", cho nên sách bàn về cách dùng sức người cải tạo địa hình Long cát mà huyệt hung, để tránh hung đón cát. Sách có 24 bản hình, 24 pháp táng, kèm theo thuyết minh. Phàm Lai Long mà có tình, thì dù thuỷ thế nào, mạch ra sao, Minh đường rộng hay hẹp, đều có thể dùng nhân công cải tạo làm cho huyệt trở nên cát (lành ).
Thanh nang tự : Tên sách. Trước đề là do Tăng Văn Siêm soạn, 1 quyển. Lưu Cơ đời Minh chú. Sách này lưu hành đồng thời với Thanh nang áo ngữ của Dương Quân Tùng. Sách lấy ngũ hành phối hợp với 8 Can, khởi tính Tràng sinh theo từng hành. Tiếp đó lấy hợi mão mùi làm mộc cục, dần ngọ tuất làm hỏa cục, tỵ dậu sửu làm kim cục, thân tý thìn làm thủy cục, cứ thế diễn dinh, cộng thành 48 cục, dương nghịch âm thuận, dùng để phán đoán cát hung của phương vị thủy lưu toạ hướng. Thực ra là “Song sơn ngũ hành" đón sau. Tứ khố toàn thư tổng mục cho rằng các sách đời sau như Ngô Công giáo tử thư, Ngọc xích kinh, Trục chí nguyên chân đều là sự tiếp tục phát triển thuyết này mà thành, cho nên Thanh nang tự là trước tác quan trọng của trường phái Lý pháp trong Thuật Phong thủy là khởi đầu của sáng lập pháp . Song Tứ khố toàn thư tổng ngục lại nói Tăng Văn Siêm là đệ tử của Dương Quân Tùng, nhân vật trung kiên tiêu biểu cho trường phái Hình pháp, chứ không phải cho trường phái Lý pháp. Khảo cứu sách Thông chí. Nghệ văn lược của Trịnh Tiêu thấy có chép Thanh nang tử ca, 1 quyển, của Tăng Văn Xiêm và Thanh nang kinh của Dương Quân Tùng, Tăng Văn Siêm, 1 quyển: không có Thanh nang tự nên sách này có lẽ do người đời sau soạn ra, mạo danh Tăng Văn Siêm cho thêm vẻ kỳ bí.
Linh thành tinh nghĩa: Tên sách. Trước đề do Hà Phố đời Nam đường soạn Lưu Cơ đời Minh chú. 2 quyển. Quyển thượng nói về hình thế sơn thủy, biện Long định huyệt chủ theo thuyết Hình pháp. Quyển hạ bàn về thiên tinh quái lệ, cát hung sinh khắc, để định huyệt lập hướng, lại theo thuyết Lý pháp pha tạp hai phái Hình và Lý. Thuyết “nguyên vận" dùng trong sách nay vốn xuất hiện từ đầu đời Minh nên chắc bằng sách nay hẳn phải do người đời Minh soạn mới đúng.
Cửu tinh huyệt pháp : Tên sách. Trước đề do Liệu Vũ đời Tống soạn, 4 quyển. Sách này chuyên nói lấy Cửu tinh phân biệt hình dạng huyệt. Cửu tinh là Thái dương, Thái âm, Kim thủy, Tử khí, Thiên tài, Ao não, Thiên Canh, Bình não, Song não; mỗi sao lại phân 9 thể : Chính thể (ngay ngắn), Khai khẩu (há miệng), Huyền nhũ (treo vú), Cung cước (cong chân), Song tí (hai cánh tay), Đơn cổ (một đùi), Trắc não (đầu), Một cốt (khung xương), Bình diện (bằng phẳng). Mỗi thứ đều có đồ hình và thuyết minh. Là trước tác quan trọng cua thuyết Hình pháp liên quan đến việc định huyệt. Sách còn nói nếu hình sơn không đẹp có thể dùng sức người san lấp tăng giảm.
Phát vi luận : Tên sách. Thái Nguyên Định đời Tống soạn. Nội dung chủ yếu nói về Địa đạo một âm một dương, một cương một nhu, phàm sự động tĩnh, tụ tán, hợp phân, hướng bối, thư hùng (đực cái), thuận nghịch, mạnh yếu, sinh tử, vi trước (nhỏ, rõ), phù trầm (chìm nổi), sâu nông .. .của sơn thủy đều có thể từ đó mà phân biệt rõ ràng, nghĩa là theo trường phái Hình pháp. Cuối sách có kèm một thiên nhan đề “Nguyên cảm ứng” muốn dùng học thuyết Nho gia mà nghiên cứu và đề cao địa vị phong thủy. Thái Nguyên Định là học trò Chu Hy, quan điểm của ông phản ánh thái độ Lý học tán dương Thuật Phong thủy. Có thuyết nói sách này do Thái Thu Đường soạn. Thái Thu Đường tức Thái Phát, hiệu Thu đường lão nhân, là cha của Thái Nguyên Định, cũng tinh thông địa lý.
Thôi quan thiên : Tên sách. Lại văn Tuấn đời Tống soạn. 2 quyển. Gồm 4 thiên Long, Huyệt, Sa, Thủy, mỗi thiên có ca quyết và chú giải. Long thì lấy 24 sơn chia âm dương, lại phân ra tam cát lục tú, mà thay đổi thụ huyệt. Huyệt thì lấy Long làm chủ, nhưng tùy theo khí mạch mà phân tả hữu. Sa, Thủy thì lấy phương vị phán đoán cát hung theo cái lý sinh khắc chế hóa của âm dương ngũ hành. Tuy nhiên có nhiều điều vô căn cứ ví dụ cho rằng Đoài Long Thìn thủy chủ đời con có sẽ bị bệnh sâu răng, hư răng, bởi lẽ Thìn có kim sát, Đoài là miệng lưỡi, răng lợi bị kim sát thì răng gãy, răng hư.
Ngọc xích kinh : Tên sách. Trước đề Lưu Bỉnh Trung đời Nguyên soạn, Lưu Cơ đời Minh chú. 4 quyển. Thực ra người soạn và người chú đều là cuối đời nhà Minh. Sách nói về các mạch núi lớn trong thiên hạ, Côn Luân là tổ của vạn ngọn núi. Ngũ nhạc cùng Trương Giang, Hoàng Hà phối với 24 sơn. Nói rằng toạ hướng Long, Huyệt cát hung lấy thủy làm chính, không hề tính đến hình thế của sơn, cường điệu cát hung của thủy khẩu, coi Giang Nam là địa hình chính tông. Tưởng Bình Giai nói rằng sách này "sao chép cách phân chia Long thành thuận nghịch và Sa thành quí tiện của hai nhà Dương, Lại; lập luận theo kiểu ức thuyết, nông cạn" (Địa lý biện chính).
Kham dư mạn hưng : Tên sách. Trước đề do Lưu Cơ đời Minh soạn. 1 quyển. Sách toàn dùng ca quyết thất ngôn tứ cú, tổng cộng 150 đề, luận Long, Huyệt, Sa, Thủy lấy Hình pháp làm chính. Lời văn ý tứ sáng sủa, tuy trước sau hay lặp lại, rất ít ví dụ.
Địa lý đại toàn : Tên sách. Lý Quốc Mộc đời Minh soạn. 2 tập, 55 quyển. Tập hợp rất nhiều trước tác phong thủy của Quách Phác, Khâu Diên Hàn, Dương Quân Tùng, Liêu Vũ, Thái Nguyên Định, Lưu cơ, Tăng Văn Siêm, Lưu Bỉnh Trung, Lại Văn Tuấn, Ngô Khắc Thành, có đến hơn 10 loại Kèm theo phụ đồ, phụ thuyết của Lý Quốc Mộc, chiêm đến một nửa bộ sách Tập chuyên luận về Hình pháp, tập 2 luận về Lý pháp. Tuy việc tuyển chọn không tinh, nhưng phải nói là dày công.
Táng kinh dực : Tên sách. Mậu Hy Ung đời Minh soạn. 1 quyển. Nửa sách này nói về Táng thư của Quách Phác, phần giữa giải thích “Thập nhị trượng pháp" của Dương Quân Tùng; phần cuối tạp giải Tam hợp, Bát tự, kèm theo “Nan giải 24 thiên". Lấy Hình pháp làm chính. Lời văn rõ ràng, tinh tế.
Thuỷ long kinh : Tên sách. Không rõ soạn giả, 5 quyển. Đầu sách có lời Tựa của Tưởng Bình Giai là người ở buổi giao thời Minh - Thanh, viết năm "Hạ nguyên Quý Mão" (tức năm 1663), người Tùng Giang, Giang Tô, một người tinh thông Thuật Phong thủy. Quyển 1 nói về đại thể Hành long kết huyệt, chi long can long tương thửa; quyển 2 nói về chính thể và biến thể ngũ tinh, thẩm biện cát hung; quyển 3 nói về cách cục của thủy - long; quyển 4 nói về tượng thủy - long thác vật tỉ loại; quyển 5 nhan đề "Thân ngôn". Trước sau tuy có mâu thuẫn, nhưng thể lệ về cơ bản như của một tác giả, nên ngờ rằng sách này là do Tưởng Bình Giai tham khảo các trước thuật liên quan mà soạn ra, chứ không chỉ viết lời Tựa. Nội dung sách là vấn đề làm nhà xây mộ ở vùng đồng bằng sông nước, nhiều hình vẽ mà ít lời văn, căn cứ hình dạng để định cát hung. Lại kèm theo thuyết Sơn long, lấy Can thủy làm Hành long, Chi thủy làm Chi long, Can Chi tương phối, nội ngoại hợp khí. Lại tạo Ngũ tinh thủy hình, Tinh tú thủy hình, nhưng dựa vào hình để nhận biết cách, không nói đến Lý pháp; ca quyết thì thô kệch vụng về.
Dương trạch thập thư : Tên sách. Không rõ soạn giả. 10 quyển. Cuối sách có lời Bạt, với câu “Vương Tử đã soạn xong Dương trạch thập thư” chứng tỏ soạn giả họ Vương. Nội dung rất phức tạp, bao gồm những gì liên quan đến lý luận, phương pháp của Phong thủy dương trạch. Sách có 10 thiên là : Luận trạch ngoại hình, Luận phúc nguyên, Luận đại du niên, Luận xuyên cung cửu tinh, luận huyền không trang quái quyết, Luận khai môn tu tạo môn, Luận phóng thủy, Luận trạch nội hình, Luận tuyển trạch, Luận phù trấn. Do vậy có tên Dương trạch thập thư.
Sơn pháp toàn thư : Tên sách. Diệp Thái đời Thanh soạn. 19 quyển. Chép lại các sách địa lý của tiền nhân, nhất là của Dương Quân Tùng .
Sơn pháp toàn thư : Tên sách. Diệp Thái đời Thanh soạn. 19 quyển. Chép lại các sách địa lý của tiền nhân, nhất là của Dương Quân Tùng và Ngô Cảnh Loan, kèm với lời bình chú của soạn giả.Nguồn : Nguyên Vũ - http://vanhoaphuongdong.com

Còn một số những Ðịnh nghĩa khác ,nhưng dienbatn xin cùng các bạn đi tiếp vì sợ rằng bài viết trở thành cuốn từ điển thì chán lắm.
Trong các Trường phái Phong thủy hiện đang lưu hành truyền bá thì hiện nay nổi lên những Trường phái sau :

1/Phái BÁT TRẠCH MINH CẢNH do Thái Kim Oanh chủ xướng.
2/Phái DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU do Triệu Cửu Phong và sau này có thêm cuốn Dương cơ chứng giải của tác giả Lộc Dã Phu.
3/Phái CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG HỌC .Theo các sách cổ ghi chép lại thì Huyền Không Học ban ðầu do Quách Phác đời nhà Tấn phát minh ra, sau được các nhà Phong Thuỷ Học như Dương Quân Tùng đời Ðường, Tưởng Ðại Hồng đời Minh, cuối cùng là Thẩm Trúc Nhưng nhà Thanh hoàn thiện lại toàn bộ học thuyết.
4/PHÁI CẢM XẠ PHONG THỦY.Hiện nay tại Việt nam có tác giả DƯ QUANG CHÂU và nhiều người nữa đang phát triển rất mạnh ,đi kèm theo đó là Lý thuyết về Năng lượng Sinh học.
5/PHÁI HUYỀN THUẬT PHONG THỦY.Trường phái này có từ rất xa xưa,thường được truyền trong dân gian qua cách Gia truyền,bí mật.Ngày nay nhiều chi phái Ðạo giáo đang thực hiện ðể giải phá những Long mạch bị trấn yểm,Khai mở những Huyệt đạo ,dùng năng lượng của nó cứu dân độ thế.

Ngoài ra còn có rất nhiều trường phái khác ,nhưng dienbatn chỉ xét đến những Trường phái nổi bật nhất hiện nay.Các Trường phái như :BÁT TRẠCH MINH CẢNH,DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU,CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG HỌC,hiện nay có rất nhiều tài liệu cho các bạn nghiên cứu và trên Diễn đàn cũng đã thảo luận rất nhiều và tưõng đối đầy đủ.dienbatn chỉ xin điểm lại những nét chung nhất của ba Trường phái này,và mong các bạn hiểu rằng ,cả ba trường phái trên ,thực chất chỉ là một vấn đề ,nhìn từ những góc độ khác nhau của môn Phong thủy.Trọng tâm của bài viết này ,muốn đưa các bạn đến với những gì hiện nay chưa phổ biến,chưa có nhiều tư liệu,ngõ hầu giúp các bạn hiểu thêm về Phong thủy và có cách sử lý chính xác những khiếm khuyết của ngôi nhà mình đang ở.Những tư liệu trong các Trường phái CẢM XẠ PHONG THỦY VÀ HUYỀN THUẬT PHONG THỦY,dienbatn trong qua trình đi Ta bà ,được các Cao nhân chỉ giáo,xin chép lại để hầu các bạn.Có những cái thấy mới tin ,nhưng một người Thày của dienbatn dạy rằng :"PHÚC CHO NHỮNG AI KHÔNG THẤY MÀ TIN ".Và các cụ có câu "LINH TẠI NGÃ -BẤT LINH TẠI NGÃ ".Có những cái tưởng là vững chắc mà thật ra ,sẽ đổ lúc nào chẳng hay.dienbatn xin điểm lại những Trường phái thông thường tạm gọi là những Trường phái HỮU VI : PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH;DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU và DƯƠNG CƠ CHỨNG GIẢI;CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG HỌC.Sau đó dienbatn đi tiếp vào những Trường phái tạm gọi là VÔ VI :CẢM XẠ PHONG THỦY VÀ HUYỀN THUẬT PHONG THỦY.Ðiều mong muốn của dienbatn là các bạn phải nhớ câu này trước khi lên đường :"NHẤT BỔN TÁN VẠN THÙ -VẠN THÙ QUY NHẤT BỔN ".Ðó chính là hai mặt của Âm -Dương đối lập cùng tồn tại trong mọi vật thể,trong Vũ trụ.

B/ PHẦN PHONG THỦY HỮU VI:

Trong phần này, dienbatn chỉ xin điểm lại những vấn đề chính mà bất cứ người nào khi bước chân vào nghiên cứu Phong thủy cũng phải bước qua.Phần này được tạm gọi là PHẦN PHONG THỦY HỮU VI vì nó có tính chất trực quan hơn, gần gũi với người sử dụng hơn.Trong phần này,như đã trình bày ở các phần trước,dienbatn coi các Trường phái Phong thủy đều có chung một nguồn gốc và đó chính là những mảnh bị tán lạc của một nền Văn minh cổ đã bị diệt vong do bản tính xu cát tỵ hung của loài người cách đây khoảng 7.000- 14.000.Vấn đề này dienbatn sẽ trình bày kỹ khi có dịp.Có một bài thơ nói về vấn ðề này xin chia sẻ cùng các bạn:
"Thiếu gì những kẻ muốn xâm lăng,
Vũ khí hung tàn có thể ngăn.
Chỉ sợ Tâm Linh bày cuộc chiến,
Còn hơn là Ðịa chấn- Sơn băng.
Như Hải tinh trong Quốc bảo mình,
Ðời nào cũng có bậc anh minh.
Mỗi khi sông núi vang lời gọi,
Là có Rồng thiêng biến hữu hình ".
Cố GS-TS NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG trong cuốn TÍCH HỢP ÐA VĂN HÓA ÐÔNG TÂY CHO MỘT CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC TƯƠNG LAI cũng đã cảnh báo về cuộc chiến này.Trong cuộc chiến tranh Tâm linh này,vũ khí nguyên tử chỉ là những trò chơi trẻ con và sự tàn phá không chỉ tính là một vài Ðất nước mà là cả một nền Văn minh của Nhân loại.Cái thuộc tính xu cát tỵ hung của con người, sẽ dần dần đẩy Văn minh Nhân loại vào cuộc chiến tự hủy diệt và bắt đầu một nền Văn minh mới được thành lập dưới THỜI ÐẠI DI LẶC THÁNH ÐỨC.
Con người có khả năng làm những điều tốt đẹp nhất cho đồng loại và đồng thời cũng có thể làm những điều tồi tệ nhất mà không có một giới hạn nào có thể cản ngăn.Ðó cũng chính là hai mặt Âm Dương đối lập nhưng cùng tồn tại song song.Cứu cánh cho việc đó chính là công việc của các Tôn giáo đang thực hiện là hướng con người vào CHÂN- THIỆN- MỸ.dienbatn xin được trình bày vấn đề này khi có dịp thích hợp.
Trở lại vấn đề Phong thủy.Thực ra nói đến thuật Phong thủy thực ra cũng chỉ là một bộ môn của nền Văn minh tối cổ đã bị hủy diệt do chính con người.
Cái gốc của Phong thủy cũng như tất cả các vấn đề khác của TRIẾT HỌC ÐÔNG PHƯƠNG như KINH DỊCH,Y THUẬT,TỬ VI LÝ SỐ,BÁT TỰ HÀ LẠC,THÁI ẤT,ÐỘN GIÁP,TỬ BÌNH vv đều dựa trên cơ sở chặt chẽ của THUYẾT ÂM DƯƠNG- NGŨ HÀNH.Ðây chính là một siêu công thức Vũ trụ,có thể lý giải những vấn đề từ vi mô đến Vĩ mô và đồng thời có khả năng dự báo.Ðây cũng chính là công thức mơ ước của các nhà Khoa học hiện đại.Tuy nhiên, đây cũng chính là công thức của Tâm linh,của những chiều không gian khác.Thuyết ÂM DƯƠNG - NGŨ HÀNH có thể lý giải tuyệt vời những vấn đề của Khoa học hiện đại, nhưng Khoa học hiện đại không thể lý giải những vấn đề về Tâm linh.Khoa học của Không gian ba chiều không thể lý giải được những vấn ðề của Không gian nhiều hơn ba chiều;Nhưng Tri thức của không gian nhiều hơn ba chiều lại có thể lý giải được những vấn đề của Không gian ba chiều.Nói theo Toán học thì Không gian ba chiều nằm trong Tập của không gian đa chiều.Cái tối ưu là sự kết hợp giữa Tâm linh và Khoa học sẽ làm cho con người tiến rất mau vào biển tri thức ðã có sẵn.
Bây giờ ta trở lại những vấn đề đơn giản hơn của những thuật Phong thủy cụ thể.
Trong Phong thủy,cái quan trọng nhất vẫn là vấn đề trường Khí.Khí ở đây không phải là Không khí hay một chất khí cụ thể nào cả.Ở nước ngoài người ta dịch Khí là SHA,hay Qi,tuy nhiên cũng chưa gọi đúng bản chất của nó.Thực ra ,nói theo từ của Khoa học,KHÍ là một dạng của Năng lượng,có vô số dạng thù hình khác nhau ,tùy theo điều kiện cụ thể.Trong Phong thủy người ta nói :"Tụ là hình- Tán là Khí" hay "Nhất bổn tán vạn thù- Vạn thù quy nhất bổn". Ðó chính là những khái niệm về bản chất của Khí.Theo Ðịnh luật bảo toàn năng lượng đã khái quát : "NĂNG LƯỢNG KHÔNG TỰ NHIÊN SINH RA VÀ CŨNG KHÔNG TỰ NHIÊN MẤT ÐI,NĂNG LƯỢNG CHỈ BIẾN ÐỔI TỪ DẠNG NÀY SANG DẠNG KHÁC".Các dạng thù hình của Khí thật là muôn hình vạn trạng nhưng bản chất của nó vẫn là dạng Năng lượng.Khí cũng không thoát khỏi quy luật của siêu công thức ÂM DƯƠNG- NGŨ HÀNH.Tức là Khí cũng có những tính chất âm dương - Ngũ hành cụ thể cho từng dạng thù hình.Những tính chất này tùy theo tương sinh hay tương khắc mà tác động lên các vật thể khác mà đem lại sự tốt hay xấu,thuận hay không thuận cho sự vận động của những vật thể khác.Nhiệm vụ của thuật Phong thủy là tìm ra điều kiện tối ưu cho cuộc sống của con người phù hợp với môi trường sống của mình.Tất cả các Trường phái Phong thủy đều phải tuân theo quy luật đó.

CHƯƠNG 1 / 
KHẢO QUA TRƯỜNG PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH : 
Thực ra Bát Trạch Minh Cảnh cũng mới xuất hiện bằng văn bản trong vài chục năm gần đây . Tác giả là Thái Kim Oanh . Không thấy nói rõ nguồn gốc tự ở đâu mà ra . Tuy nhiên đây là một phương pháp khảo sát Phong Thủy tương đối thuận tiện và dễ xử dụng . Trong các tác phẩm của Thái Kim Oanh có những cuốn như : Bát Tự Lữ Tài , Bát Môn Thần Khóa , Bác Lãm Quần Thơ , Bát Trạch Minh Cảnh ...
Các bạn mới bắt đầu học Phong thủy có thể đi từ trường phái này . Trong Bát Trạch Minh Cảnh , người ta xét đến mối quan hệ giữa tuổi chủ chủ nhà và hướng nhà . Để có thể tự lập cho mình các hướng tốt xấu theo cung phi Bát trạch , các bạn dùng chương trình của Vietshare rất thuận tiện .
 Đây là đường Link :
 http://tuvi.vietshar...ly/battrach.asp . 

Các bạn chỉ cần điền giới tính , năm sinh và hướng nhà chính xác tới từng độ là có thể tự in cho mình những hướng tốt xấu để lựa chọn khi mua nhà hay xây dựng nhà mới .
Có một cuốn sách điện tử dạng pdf của Kép Nhật bên TUVILYSO cũng rất hay , các bạn có thể lấy về tham khảo . Đây là đường link của cuốn sách đó : 

http://www.tuvilyso....
BatTrach.pdf

Dùng hai công cụ mà dienbatn vừa dẫn , các bạn đã có thể tự coi nhà cho mình theo phái bát Trạch Minh Cảnh rồi . Tuy nhiên , dienbatn cũng xin cảnh báo : Phái bát Trạch Minh Cảnh chỉ là một phần nhỏ trong công việc khảo sát Phong thủy của Dương trạch . Muốn giởi Phong thủy cần phải học tiếp những phần ở sau .
Trong phần Bát trạch Minh Cảnh này , chúng ta cần lưu ý một số bước sau :
1/ Việc quan trong  khi đo hướng nhà  :  các bạn phải đo chính xác tới từng độ một . Ví du Tọa Dậu - Hướng Mão - thuộc cung Chấn - Đông tứ cung . Chính Mão là 90 độ . Từ tâm của đường chỉ hướng nhà , mỗi bên không quá 3 độ là còn nằm trong cung này và được tính toán cho Tọa Dậu - Hướng Mão . Khi quá cung 3 độ trở lên ( 87 93 độ ) tức là cung hướng Kiêm , các bạn phải tính toán theo hướng Kiêm mới chính xác .
2/ Khi đặt La Kinh có vòng Phúc Đức xoay được thì khởi đầu như sau : 
Tùy theo hướng cửa chính, sao Phước-đức của sơn được bày bố ở vị trí sau đây:
1. Cửa chính của nhà quay về hướng Tây-bắc: sao Phước-đức được bày bố ở sơn Thân.
2. Cửa chính của nhà quay về hướng Bắc: sao Phước-đức được bày bố ở sơn Dần.
3. Cửa chính của nhà quay về hướng Ðông-bắc: sao Phước-đức được bày bố ở sơn Giáp.
4. Cửa chính của nhà quay về hướng Ðông: sao Phước-đức được bày bố ở sơn Tỵ.
5. Cửa chính của nhà quay về hướng Ðông-nam: sao Phước-đức được bày bố ở sơn Tỵ.
6. Cửa chính của nhà quay về hướng Nam: sao Phước-đức được bày bố ở sơn Thân.
7. Cửa chính của nhà quay về hướng Tây-nam: sao Phước-đức được bày bố ở sơn Hợi.
8. Cửa chính của nhà quay về hướng Tây: sao Phước-đức được bày bố ở sơn Hợi.
Các sao kế tiếp được bày bố tiếp tục đến các sơn kế tiếp theo đó cho đến hết vòng.

LA KINH VÀ VÒNG PHÚC ĐỨC.
1. Cửa chính của nhà quay về hướng Tây-bắc + Cửa chính của nhà quay về hướng Nam: : sao Phước-đức được bày bố ở sơn Thân.


2. Cửa chính của nhà quay về hướng Bắc  : sao Phước-đức được bày bố ở sơn Dần.


3. Cửa chính của nhà quay về hướng Ðông-bắc: sao Phước-đức được bày bố ở sơn Giáp.



4. Cửa chính của nhà quay về hướng Ðông +Cửa chính của nhà quay về hướng Ðông-nam : sao Phước-đức được bày bố ở sơn Tỵ.



6. Cửa chính của nhà quay về hướng Nam +Cửa chính của nhà quay về hướng Tây-bắc: sao Phước-đức được bày bố ở sơn Thân.


7. Cửa chính của nhà quay về hướng Tây-nam +Cửa chính của nhà quay về hướng Tây : sao Phước-đức được bày bố ở sơn Hợi.


3/Tính chất của vòng Phúc đức như sau : 

PHÚC ĐỨC : Đặt cửa vào sơn vị này là rất tốt. Sản xuất chăn nuôi đều thịnh đạt , giàu sang, con cái hiển đạt.
ÔN HOÀNG : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu, bệnh tật làm ăn thua lổ, thị phi, quan sự bất lợi.
TẤN TÀI : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt ,tăng nhân khẩu, điền trạch thịnh đạt, lợi công danh, sản xuất thịnh đạt.
TRƯỜNG BỆNH : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu, nhiều bệnh tật, con cái hư hỏng, làm ăn thua lổ, thị phi,gia trưởng bị thủ túc bất nhân.
TỐ TỤNG : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,gia tài bị tranh chấp, tiểu nhân hãm hại, sản xuất chăn nuôi thua thiệt, cuốc sống không yên ổn.
QUAN TƯỚC : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, quan lộc tăng tiến, tăng nhân khẩu, sản xuất chăn nuôi phát đạt.
QUAN QUÍ : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, sinh quí tử, chức vị cao, điền trạch thịnh vượng, chăn nuôi kinh doanh phát tài, giàu có.
TỰ ẢI : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,thiệt nhân khẩu,quan sự bất lợi, nam ly hương, nữ tật bệnh, chăn nuôi thua thiệt.
VƯỢNG TRANG : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, điền trang gia tăng, nhân khẩu thịnh đạt, sản xuất kinh doanh phát đạt, Lợi cho chủ mệnh.
HƯNG PHƯỚC : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt,trường thọ anh khang thịnh vượng, trai gái thanh lịch, quan chức gia tăng, chăn nuôi thịnh vượng, lợi cho con thứ.
PHÁP TRƯỜNG : Đặt cửa vào sơn vị này là rất xấu , đoản thọ, kiện cáo tù đày, tha phương cầu thực.
ĐIÊN CUỒNG : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , dâm loạn rượu chè, hao tổn tài sản, con caí bạo ngược, nhân khẩu bất an.
KHẨU THIỆT : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,bị vu oan giáng họa, con cái ngổ nghịch, huynh đệ bất hoà, chăn nuôi thất bại.
VƯỢNG TÀM : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, gia đạo nghiêm túc, điền sản thịnh vượng , tiền của nhiều, nhiều con cháu, cần kiệm, chăn nuôi phát đạt.
TẤN ĐIỀN : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, phúc lộc lâu dài, con cái hiền tài, tiền bạc, ruộng vườn sung túc.
KHỐC KHẤP : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , gia đình luôn bị tai hoạ, đoản thọ, nhiều bệnh tật, tiền tài bị phá hại, chăn nuôi bất lợi.
CÔ QUẢ : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , quả phụ, tha phương cầu thực, phá sản, chăn nuôi bất lợi.
VINH PHÚ : Đặt cửa vào sơn vị này là rất tốt, vượng nhân khẩu, gia đình vô tai hoạ, phú quí vinh hoa, tôt nhứt cho người co mệnh hỏa.
THIẾU VONG : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,hại nhân khẩu, rượu chè, háo sắc, nhiều bệnh tật.
XƯỚNG DÂM : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,dâm loạn, nam nữ tửu sắc hại gia phong, hoài thai, chăn nuôi bất lợi.
THÂN HÔN : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, vuợng nhân khẩu, chăn nuôi thịnh vượng, buôn bán phát tài,lợi người mệnh hoả.
HOAN LẠC : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, phát tài, vượng điền, chăn nuôi hưng thịnh, lợi cho người mạnh Thuỷ.
TUYỆT BẠI : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , gia tài phá bại, cha con không quan tâm đến nhau.
VƯỢNG TÀI : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, kinh doanh buôn bán phát tài, phú quí, con cái hiều thảo,lợi cho người mạng hỏa.

4/TÍNH CHẤT CÁC SAO TRONG HỆ NHỊ THẬP BÁT TÚ.

1. Sao Giác :Là Mộc tinh mang tên con Giao ( Cá Sấu ) . Là một sao tốt, chủ về vinh hiển, đỗ đạt, gặp Quý nhân, lơi cho việc hôn thú, con cái tốt lành. Kỵ mai táng và xây cất mộ phần.
2. Sao Cang : Là Kim tinh, mang tên con Rồng. Là một sao xấu, chủ mọi việc phải giữ mình, đừng làm liều. Ky hôn thú.
3. Sao Đê : Là Thổ tinh mang tên con cầy hương. Là một sao xấu, chủ phải đề phòng mọi chuyện. Kỵ động thổ, Kinh doanh, xuất hành.
4. Sao Phòng :Là sao Thái dương, mang tên con Thỏ. Là một sao tốt, chủ về vượng tài sản, ruộng vườn, giầu sang,xây cất, cưới xin hài hòa vui vẻ.
5. Sao Tâm : Là sao Thái âm,mang tên con hổ. Là một sao xấu, chủ xấu về chung thủy, hôn nhân bất lợi, kinh doanh thua lỗ, kiện tụng.
6. Sao Vĩ : Là hỏa tinh mang tên con Hổ. Là một sao tốt, chủ tốt về làm nhà, giá thú, xuất ngoại, kinh doanh đều tốt.Thăng quan, tiến chức, sự nghiệp hưng vượng.
7. Sao Cơ : Là Thủy tinh, mang tên con Báo. Là một sao tốt, chủ tốt về sự nghiệp, tương lai sang sủa, nhà cửa khang trang, giầu sang.
8. Sao Đẩu : Là Mộc tinh, mang tên con Giải. Là một sao tốt, chủ hôn nhân, sinh đẻ tốt đẹp. Chăn nuôi, sản xuất tốt. Xây dựng nhà cử tốt đẹp.
9. Sao Ngưu : Là Kim tinh, mang tên con Trâu, là một sao xấu. Chủ tổn sức lực, tài sản, cưới xin, kinh doanh bất lợi, sản xuất bất lợi, xa nhà phải thận trọng.
10. Sao Nữ : Là Thổ tinh, mang tên con dơi. Là một sao xấu, chủ xấu về bị mắc lừa, bất lợi khi sinh đẻ, hao tốn tiền của,
11. Sao Hư : Là Nhật tinh mang tên con chuột . Là một sao xấu về quan hệ vợ chồng.
12. Sao Nguy : Là Nguyệt tinh mang tên con én. Là một sao xấu, kỵ xây cất nhà cửa, kinh doanh bất lợi, dễ bại sản.
13. Sao Thất : Là Hỏa tinh mang tên con lợn. Là một sao tốt, chủ về công danh , sự nghiệp, buôn bán, kinh doanh, xây dựng đều cát lợi.
14. Sao Khuê : Là Mộc tinh mang tên con sói. Sao Khuê nử a tốt nửa xấu. Tốt về quan hệ vợ chồng hòa thuận, phúc lộc. Xấu về khai trương động thổ, an táng.
15. Sao Lâu : Là Kim tinh, mang tên con chó. Là sao tốt, chủ về hôn thú, sinh đẻ, con cái tốt. Thăng quan tiến chức , người của hưng thịnh.
16. Sao Vĩ : Là Thổ tinh , mang tên con chim trĩ. Là một sao tốt, chủ về Vinh hoa , phú quý, buôn bán , hôn nhân, xây dựng đều cát lợi.
17. Sao Mão : Là Nhật tinh mang tên con gà. Là một sao xấu, chủ về chăn nuôi, xây dựng đều xấu, hôn thú bất lợi,công danh trục trặc.
18. Sao Tất : Là Nguyệt tinh mang tên con quạ. Là một sao tốt, chủ về được mùa,chăn nuôi phát đạt, nhà cửa khang trang, hôn nhân, sinh đẻ tốt đẹp.
19. Sao Chủy : Là Hỏa tinh, mang tên con Khỉ. Là một sao xấu, chủ về kiện tụng, mất của, bất lợi cho công danh.
20. Sao sâm : Là Thủy tinh mang tên con vượn. Là một sao tốt, chủ về Vinh hoa phú quý,mưu cầu sự nghiệp cát lợi, buôn bán phát tài, xây dựng tốt, an táng cát lợi.
21. Sao Tỉnh : Là Mộc tinh mang tên con hươu. Là một sao tốt, chủ về lợi cho việc thi cử, công danh, trồng trọt, chăn nuôi được mùa, xây dựng nhà cửa, hôn nhân tốt đẹp. Sao này kỵ an táng.
22. Sao Quỷ : Là Kim tinh, mang tên con dê. Là một sao xấu, chủ về bất lợi cho việc xây cất nhà cửa, hôn nhân bất lợi. Riêng việc an táng tốt.
23. Sao Liễu : Là Thổ tinh mang tên con hoẵng, Là một sao xấu, chủ về hao tài tổn sức, tai nạn, không được yên ổn.
24. Sao Tinh : Là Nhật tinh mang tên con ngựa. Là một sao xấu, chủ xấu về quan hệ vợ chồng, hôn nhân. Riêng về xây dựng thì tốt.
25. Sao Trương : Là nguyệt tinh, mang tên con hươu. Là một sao xấu, chủ về xấu trong xây dựng, tai nạn, quan hệ nam nữ .
26. Sao Dực : Là Hỏa tinh, mang tên con rắn. Là một sao tốt, chủ về vượng tài lộc, con cháu giầu sang, xây dựng, hôn thú tốt đẹp.
27. Sao Chẩn : Là Thủy tinh, mang tên con giun. Là sao tốt, chủ về thăng quan tiến chức, tăng tài lộc, kinh doanh phát tài, hôn nhân, an táng tốt đẹp.
28. Sao Bích : Là một sao tốt .
Hai vòng này được dùng khi xác định tốt xấu của các vị cửa : Chính Môn , Tả Thiên Môn , Hữu Thiên Môn .
5/ CÁCH ĐẶT BẾP THEO PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH .

Phương Pháp đặt Bếp :
Bếp có 3 tiêu chí để xác định :
• Hướng Bếp : Phải quay về hướng tốt của Gia chủ.
• Vị trí đặt Bếp : Phải đặt tại cung tốt của Gia chủ.
• Sơn (lưng ) của Bếp phải đốt về hướng xấu chủ.
Khi đặt bếp phải xem khi phân cung , bếp nằm tại cung nào của 24 Sơn và ta chọn VI TRÍ đặt bếp vào 1 trong 24 cung tốt theo bài thơ sau .
Phép giải hung của bếp:Đây là nguồn gốc nuôi dưỡng con người, bệnh tật cũng do ăn uống mà sinh ra. Do đó bếp phải an theo hướng có sinh khí. Thiên Y hay Diên Niên, đó là 3 kiết phương, điều tối kỵ là làm bếp ở hung phương như Ngũ quỷ và Lục sát. Nếu phạm vào cát hung phương này thời hại người hại của, hay sinh bệnh hoạn. Muốn giải trừ hung họa, thời dọn dẹp hết tro bụi trên bếp cũ, cúng nước sạch quét rửa cho sạch sẽ. Sau đó đem tro bụi ra đổ ở sông hoặc hoặc ở vùng đồng trống. Mua những vật liệu mới xây cất theo cát phương Thiên y như vậy có thể giải quyết được hung tai, điều này rất ứng nghiệm, nếu bếp thuộc phương Mộc sẽ ứng nghiệm trong vòng 30 ngày, bếp thuộc phương Thổ ứng trong vòng 50 ngày, bếp thuộc phương Kim, ứng nghiệm trong vòng 40 ngày, bếp thuộc Hỏa ứng trong vòng 20 ngày, cuối cùng bếp thuộc phương Thủy sẽ ứng trong vòng 60 ngày. Nếu chủ cũng được cát phương thời bệnh mau khỏi, thêm con thêm của, và công danh hoạn lộ thường ứng trong vòng 3 năm.

Ngoài ra những đồ thiết khí hay vật cứng, trang bị cho bếp cũ, vì e hung khí chưa tan, nên để nơi trống trải, đúng 100 ngày có thể dùng lại mà vô hại. Riêng những vật dụng thường dùng như chén bát, đũa, muỗng… đều không kỵ. Trái lại chỉ kỵ đồ dùng bằng sắt, sau 5 ngày mang đi bỏ ở nơi xa, đúng 5 ngày là lấy theo ý nghĩa phá Ngũ quỷ.

BÀI THƠ KHAI TÁO MÔN LỆ AN ĐỒNG TÁO VỊ .

Táo nhập Càn cung thị diệt môn .
Nhâm - Hợi nhị vị tổn nhi tôn .
Giáp - Dần đắc tài , Thìn Mẹo phú .
Cấn - Ất thiêu hỏa tức tào ôn .
Tý - Quý - Khôn phương Gia khốn khổ .
Sửu phương tổn súc , gia học ương .
Tỵ - Bính phát tài , Canh đại phú .
Ngọ phương vượng vị phú nhi tôn .
Tân - Dậu - Đinh phương đa tật bệnh .
Thân - Tốn - Mùi - Tuất trạch hanh thông .
Tác Táo thiết kỵ dụng phấn Thổ .
Tàn chuyển - Cận Thủy thiết an ninh .
Giải nghĩa .
Táo đặt vào cung Càn thì Gia môn bị suy sụp .
Đặt vào 2 cung Nhâm - Hợi thì hại cho con cháu .
Đặt vào 2 cung Giáp - Dần thì có tiền , Thìn - Mão thì giầu .
Cung Cấn , Cung Ất thì bị Ôn dịch .
Ba cung Tý - Quý - Khôn nhà bị khốn khổ .
Phương Sửu hại lục súc , nhà gặp họa ương .
Hai Sơn Tỵ - Bính phát tài , Phương Canh đại phú .
Phương Ngọ là phương vượng , con cháu được giầu .
Tân - Dậu - Đinh ba phương này nhiều bệnh tật .
Cung Thân - Tốn - Mùi - Tuất gia đạo được hanh thông .
Làm bếp rất kỵ đất dơ bẩn , dùng gạch mới hay đá ở mé nước rất tốt .Khi đặt bếp mới ta có thể khấn theo thủ tục như sau :

Thỉnh ti mệnh Táo quân

Bái thỉnh cửu thiên đông trù , ti mệnh táo quân .
Nhất gia chi chủ , ngũ tự chi thần .
Từ hậu thiệt ư , bắc đẩu chi trung .
Sát thiện ác ư , đông trù chi nội .
Tứ phúc xá tội , di hung hóa cát .
An trấn âm dương , bảo hữu gia đình .
Họa tai tất diệt , hà phúc tất tăng .
Hữu cầu tất ứng , vô cảm bất thông .
Đại bi đại nguyện . Đại thánh đại từ .
Cửu thiên đông trù . Ti mệnh lô vương .
Nguyên hoàng định quốc . Hộ trạch thiên tôn .
Cấp cấp như luật lệnh .PHẬT THUYẾT :
TƯ MẠNG TÁO QUÂN CHƠN KINH

Tư Mạng Táo Quân Bửu Cáo :

Nhất gia chi chủ , ngũ tự chi thần .
Tư hậu thiệt ư , bắc đẩu chi trung . xét thiện ác ư đông trù chi nội .
Tứ phúc xá tội , di hung hóa cát . An trấn âm dương , bảo hựu gia đường
Họa tai tất diệt , hà phúc tất tăng . Hữu cầu tất ứng , vô cảm bất thông
Đại bi đại nguyện . Đại thánh đại từ .
Cửu thiên đông trù . Tư mệnh Táo Quân .Đế Quân Phật Táo , Nguyên hoàng định quốc . Hộ trạch thiên tôn .(1 lần )

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.

TƯ MẠNG TÁO QUÂN CHƠN KINH.
TƯ MẠNG TÁO QUÂN. TÁNH TRƯƠNG , HÚY ĐƠN , TỰ TỬ QUÁCH , BÁT NGOẠT , SƠ TAM NHỰT (vía mùng 3 tháng 8 âm lịch ), THÁNH DIÊN THỊ NHỰT NGHI THIẾT TRAI CÚNG DƯ- TƯ MẠNG TÁO QUÂN. TÁNH TRƯƠNG , HÚY ĐƠN , TỰ TỬ QUÁCH , BÁT NGOẠT , SƠ TAM ỜNG. THẬP NHỊ NGOẠT THẬP TỨ NHỰT TÝ THỜI THƯỢNG TẤU THIÊN TÀO , NGHI TIÊN Ư NHỊ NGOẠT THẬP TAM NHỰT KIỀN THÀNH TRAI CÚNG KỈNH TỐNG CHÍ , TAM THẬP NHỰT HỒI VỊ VỤ , NGHI CHÍ THÀNH NGHINH TIẾP TRAI CÚNG TÁO THẦN . NẢI NHỨT GIA TƯ MẠNG CHI CHỦ CẢM ỨNG CHÍ LINH , MỖI NGOẠT THẬP TAM NHỰT , TƯƠNG NHỨT GIA SỞ VỊ THIỆN ÁC , LỤC TẤU THIÊN TÀO HÀO BẤT ẨN QUÍ GIÁNG TƯỜNG GIÁNG ƯƠNG , BÁO NHƯ ẢNH HƯỞNG , CẬN HỬU NAM NỮ ĐỘ HẢI PHẦN HƯƠNG ĐĂNG SƠN ĐẢO MIẾU BẤT GIA TRI HỬU TÁO QUÂN TƯ MẠNG TỐI HIỂN TỐI LINH , NHI BẤT ÂN CẦN KHÂM KỈNH , SỞ VỊ XÁ CẬN CẦU VIỄN , NHƯỢC NĂNG THÀNH TÂM KĨNG PHỤNG KINH HÀNH , THIỆN SỰ TẤT HỘ KIẾT KHÁNH , PHÀM NHƠN GIA KHẨU BẤT AN SỰ BẤT TOẠI Ý GIẢ VIỆC NHƠN QUÁT QUA THIÊU CHỬ , HỬU ĐỘC TÁO QUÂN NHI BẤT TRI GIÁC , CẬN NGỘ CAO NHÂN TRUYỀN THỌ TẠNG KINH , SỞ TẠI NGHI KỴ SỞ KHOẢN CƯ GIA TRIỀU TỊCH , PHẦN HƯƠNG TÁO TIỀN THƯỜNG GIÁO HƯ HOÀNG ĐẠI ĐẠO , KIẾP KIẾP HÓA SANH , BIẾN HÓA THÀNH HÌNH , MINH MINH DẠ DẠ , SANH SANH HÓA HÓA , THÁNH THÁNH HIỀN HIỀN , PHẬT PHẬT TIÊN TIÊN , NHƠN NHƠN QUỶ QUỶ , HỬU TÀ HỬU XÍ , HỬU ÔN HỬU TINH , DỊCH LỆ LƯU HÀNH , TỬ SANH BỊNH KHỔ. CHUYỂN VIẾT THƯỢNG CỔ , HẠ CHÍ NHƠN GIAN , KIẾT HUNG THIỆN ÁC , OAN HỒN TẠO TÁC , NHIỂM HOẠN THÂN TRUNG , TẬT BỊNH NAN THÔNG , TỨ THỜI HÀN NHIỆT , PHONG KHÍ CHI HUYẾT , TÀ MA XÂM LĂNG , KẾT THÀNH OAN TRÁI , CỪU THÙ CHẤP ĐỐI , NAM THƯƠNG YỂU TỬ , DỊCH LỆ ÔN HOÀNG , HÓA VI BÁ QUỈ , CHUYỂN VẬN THIÊN ĐỊA , TRỪ TÀ QUI CHÁNH , CHUYỂN THẦN VI THÁNH , CHUYỂN PHẬT VI TIÊN , CHUYỂN THIÊN VI ĐỊA , CHUYỂN SƠN VI THỦY , CHUYỂN ÔN VI QUỈ , CHUYỂN TÀ VI CHÁNH , CHUYỂN TỬ VI SANH , CHUYỂN HUNG VI KIẾT. TỐNG ÁC NGHINH TƯỜNG , TAM BÀNH LỤC TẶC , HÓA VI THÁNH TIÊN ......
CHUYỂN THIÊN THIÊN ĐỘNG , CHUYỂN ĐỊA ĐỊA KINH , CHUYỂN NHỰT NHỰT MINH , CHUYỂN NGUYỆT NGUYỆT HIỆN , CHUYỂN PHONG PHONG CHÍ , CHUYỂN VỎ VỎ ĐÌNH , CHUYỂN SƠN SƠN TẨU , CHUYỂN LÔI LÔI OANH , CHUYỂN THỦY THỦY KIỆT , CHUYỂN HẢI HẢI BÌNH , CHUYỂN PHẬT PHẬT HIỆN , CHUYỂN TƯỚNG TƯỚNG HÀNH , CHUYỂN BỊNH BỊNH TẨU , CHUYỂN TẬT TẬT KHINH , TỨ CHI CỬU KHIẾU , BÁT MẠCH TAM TINH , NGỦ TẠNG LỤC PHỦ , THÂN THỂ AN NINH , TẢ PHỤ HỬU BẬT , TIỀN TỐNG HẬU KHINH , VẬN CHUYỂN THIÊN ĐỊA NHƠN VẠN VẬT HÓA SANH , TAM HOÀNG NHẤT LÝ , HỖN HIỆP ĐỒNG HÌNH , TÀ MA BÔN TẨU , TÍN CHỦ AN NINH , PHẬT THUYẾT THỊ KINH VĨ GIA TRÌ , CHUYỂN VẠN VẬT QUỶ DIỆT TÀ KINH , VẠN SANH HOAN DUYỆT ĐẠI CHÚNG MẪN CỤ TÍN THỌ PHỤNG HÀNH ĐƯƠNG KIẾT TỊNH , SÓC , VỌNG MINH ĐĂNG MỖI NGOẠT TAM THẬP NHỰT , VÃNG KIỀN THIỀN LỂ KÍNH TÁO THƯỢNG , THIẾT VẬT XAO QUA ĐẢO THIẾT CƯƠNG QUẾ THÔNG TÁN TÁO TIỀN THIẾT VẬT CA KHỐC CHÚ MẠ , TÁO NỘI BẤT KHẢ PHẦN HÓA TỰ CHỈ VẬT DỈ UẾ SÀI KÊ MAO THÚ CỐT , NHẬP TÁO VẬT VĨ , HÀI LÝ Y PHỤC HỒNG TÂM VẬT TÚC ĐẠP TÁO MÔN GIA PHỦ TÁO THƯỢNG TẢO BẢ HƯỚNG TÁO VẬT THỰC NGƯU KHUYỂN NHỊ NHỤC TỰ NHIÊN THẦN AN GIA VƯỢNG PHƯỚC TẬP TIÊU TAI HỶ. (tụng 3 LẦN )

Nghi thức cúng vào giờ Hợi (22 giờ) các ngày : 7 , 13 , 23 , 24 âm lịch hàng tháng , lể vật gồm :3 chung nước , 1 bình bông , trái cây , giấy vàng bạc cúng Táo Quân (có chử ĐỊNH PHÚC TÁO QUÂN )

Thắp 7 ngọn đèn cầy để trên đĩa cúng nơi bếp và 7 ngọn đèn cầy để trên dỉa cúng trên bàn thờ ông Táo theo hình sau đây :

2 3

1 4 5 6 7 

Xin xem tiếp bài 3 - dienbatn.

TỔNG HỢP CÁC BÀI VIẾT 
PHONG THỦY LUẬN
Tác giả: Điện Bà Tây Ninh

1  |  2  |  3  |  4  |  5  |   6  |   7  |  8  |  9  |  10  |  11  |  12  |  13 |  14  |  15  |  16  |  17  |  18  |  19  |  20  |   21  |   22  |  23  |  24  |  25  |  26  |  27  | 28 |  29  |  30  |  31  |  32  |  33  |  34  |  35  |   36  |   37  |  38